Mùa hạn

 

Mùa hạn. Cùng với lửa từ mặt trời là lửa chiến trường. Và chúng tôi cũng theo những màn lửa khói ấy mà có mặt. Và ở đó, sự hiểm nguy không phân biệt bất cứ một ai, dù kẻ ấy có súng đạn hay không súng đạn như chúng tôi. Con đường ra mặt trận không còn được xữ dụng được nữa, khiến  chúng tôi càng cực khổ vô bờ. Những thân người bị những thùng đạn dược làm oằn xuống. Hai bàn tay tươm máu. Những ngón chân cũng vậy. Phải bấu vào đất đá để giữ thăng bằng. Nếu không cả khối đạn trên người sẽ rớt xuống và có thể đè chặn ngay ống quyển cũng không chừng. Chúng tôi phải dùng đòn gánh, đòn bẩy để di chuyển những thùng lựu đạn, thùng dầu, cả  những thùng hộp lương khô cho chiến trường. Và cả công việc phải chuyển những can nước  để mang về Bộ chỉ huy cho ông tiểu đoàn trưởng tắm rửa.

 Mùa hạn. Cái đơn vị trừng giới càng khổ hơn bao giờ. Bên phía quân miền Nam, càng bung ra những cuộc hành quân càn quét vào phía sâu gần biên giới, và càng hành quân, chúng tôi càng bị trưng dụng nhiều hơn. Có đơn vị, đơn vị trưởng dễ dải và thông cảm. Nhưng có đơn vị, họ xem chúng tôi là những kẻ tội tù cần phải canh chừng. Và họ đã xữ dụng chúng tôi tối đa như thể những tên nô lệ không hơn không kém.

 Rồi đến một ngày, người ta lại điều động chúng tôi về thị trấn miền núi. Lý do, người ta cần chúng tôi săn sóc cái dinh thự nghỉ mát – nơi những nhân vật uy thế nhất của quốc gia hay của vùng vẫn hay tìm đến, trong những dịp nghỉ hè, hay trong những mùa săn bắn.

 oOo

Mùa hạn. Nhưng ở đây không có lửa chiến tranh. Chỉ có lửa từ một mặt trời hừng hực đốt. Hầu như không có một ngọn cây nào chịu mọc lên từ mặt đất khô cằn nứt nẻ. Thỉnh thoảng có một cơn gió núi thổi qua, khiến bụi đỏ tung lên mù trời quất xối xả vào mặt mày chúng tôi cùng với hơi nóng rát. Cỏ đã chết từ một ngày nào, vàng khô như bãi sa mạc. Nhưng ở đây, đằng sau cánh cổng sắt và dãy tường vôi nhạt là một thế giới khác. Ở đây, nơi những ngài lãnh đạo,  những mệnh phụ phu nhân, thỉnh thoảng ghé về, và sống như bậc vương giả. Ở đây sân cỏ xanh rì, hồ thủy tạ nước trong veo, và đàn cá vàng óng ánh lội. Ở đây là những buổi tiếp tân linh đình, những cuộc vui, khiêu vũ thâu đêm suốt sáng… Ở đây có phi lao, giáng hương, hoa sứ, hoa giấy. Ở đây là những bậc thềm lót bằng đá thanh dẫn về một hành lang mát lạnh. Những chú chim sẻ buổi trưa đuổi nhau ríu rít dưới hành lang. Và chiều đến, những người đàn ông, đàn bà ra sân cỏ, nằm hoặc ngồi âu yếm bên nhau. Người ta đã quên những gì xảy ra ở  phía rừng. Đã có những lực lượng hùng hậu nằm ngoài vòng đai bảo vệ đêm ngày.

Dù chúng tôi đã khổ sở để tưới nước suốt ngày nhưng thỉnh thoảng giữa đám cỏ xanh rì vẫn hiện ra những lốm đốm vàng. Nước cũng vẫn chịu thua. Chúng tôi đã phải làm việc quần quật để cố giữ màu xanh trở lại. Chúng tôi đã chuyền những ống dây cao su dài dặc, mang nước từ bồn ra bốn phía. Đôi khi ống cao su bị hỏng, chúng tôi không biết cách gì hơn là phải gánh những thùng nước đi một đoạn khá xa. Người ta không muốn thấy một ngọn cỏ vàng giữa một dinh điện nguy nga như thế này . Óc mỹ thuật của họ quả thật là phong phú. Hay là họ muốn tâng công trạng lên những kẻ quyền cao chức trọng từ đâu đó.

Bởi thế ông thượng sĩ phụ trách đã lo lắng không ít. Ông đã phải hét ra lửa, một khi đi kiểm soát:

– Làm ăn cái khỉ gì để cho cỏ mỗi ngày một chết!

Bạn tôi vừa kéo ống cao su, vừa bào chữa:

– Thưa thượng sĩ, tại trời đâu phải tại chúng tôi.

Ông ta la lên:

– Tôi không biết. Đây là trách nhiệm của các ông. Các ông nên nhớ các ông ở đây là còn may. Bạn các ông phải tải đạn ngoài mặt trận!

Rồi ông tức giận bỏ đi. Ông lại đem ra chuyện sống chết để hù dọa chúng tôi nữa. Chúng tôi đã hiểu trách nhiệm và nỗi khổ tâm của ông.

Hoàng hôn đã xuống thật chậm. Dinh thự đã nhuốm một màu vàng sẫm trên mái ngói. Lũ chim sáo từ một khu rừng nào đó trở về như mọi bận, gọi nhau inh ỏi. Thỉnh thoảng tiếng ve sầu lại vang lên như một cung đàn buồn bã. Các cây sứ đã rụng đầy hoa trên bãi cỏ, trên lối đi lót bằng loại đá quí. Phía xa, một nền trời đỏ ửng và một mặt trời đỏ như huyết hiện đằng sau những nhánh phượng khô. Thật là một hoàng hôn kỳ diệu. Những cơn gió mát đầu tiên của một ngày mùa hạ đã bắt đầu trở lại, làm lung lay những chiếc lá giáng hương. Ở chóp những cây trâm đang độ nở hoa, bướm vàng từng đàn đang dập dìu bay lượn. Tôi muốn chết ngất trong thiên nhiên tuyệt vời. Tôi muốn nằm ngay trên bãi cỏ xanh êm mà chúng tôi đã đổ xuống bao mồ hôi để gìn giữ, mà nhắm mắt lại, tận hưởng nỗi êm đềm của chiếc bánh xe thời gian đang dần lăn vào cõi tối. Tôi muốn uống  trọn những giàn hoa giấy, hoa hồng, hoa sứ trong vườn. Chúng tôi đã bắt từng con sâu, con kiến, nhổ từng cọng cỏ dại… Nhưng tôi không thể thực hiện điều mơ ước. Không ai cho tôi được quyền nằm đây để tận hưởng. Tôi chỉ biết ngồi yên trên cỏ, dưới bóng mát của cây giáng hương. Trên cao bầu trời xanh như màu ngọc bích. Có tiếng chim ríu rít trên cành. Ở đây mọi sự thật bình an. Và tâm hồn tôi cũng vậy. Cũng yên tĩnh chẳng khác một thiền sư.

Giữa lúc ấy thì một người con gái từ trong dinh bước ra.

Nàng trẻ trung trong chiếc quần jean và chiếc áo polo màu huyết dụ. Tóc nàng thắt bím. Cả gương mặt nàng thật rạng rỡ. Thêm đôi mắt sáng. Nàng đến bên bụi hồng cao quá đầu người. Và nàng say sưa nhìn lên những cánh hoa sung mãn trên ngọn cao. Sau đó, nàng nhón chân để níu cành hồng xuống. Rồi tôi nghe nàng la lên, tuồng như thét lên vì đau đớn. Tôi chạy lại. Thì ra vì sơ ý cả một cành hồng đầy gai móc vào da thịt của nàng. Nàng vẫn còn ôm lấy bàn tay ri rỉ máu.

Ôi cánh tay ngà ngọc. Cổ tay trắng, và những ngón tay mềm mại. Tôi nâng cả bàn tay của nàng lên, cố gỡ những chiếc gai nhỏ còn vướng lại trên da. Nàng ngồi bệt xuống cỏ. Tôi cũng qùi xuống. Nàng để nguyên bàn tay trong lòng bàn tay tôi, miệng mếu máo:

– Có sao không ông?

– Không sao đâu, thưa cô.

– Nhưng sao lại nhức quá thưa ông?

Tôi an ủi nàng:

– Chịu một lúc rồi sẽ hết. Lần sau, cô cần thì kêu tôi, tôi hái giúp cho…Hồng này nhiều gai lắm,  thưa cô.

Trông nàng tội nghiệp làm sao. Nàng nắm chặc tay tôi, Nước mắt xem chừng long lanh. Tôi quì xuống cố gở những móc gai tàn bạo. Vâng, em đau, tôi biết. Gai hồng này là loại gai nguy hiểm. Móc như móc câu. Khi móc vào da thịt thì khó có thể cạy ra.

Sau đó, nàng cám ơn tôi, rồi vào dinh. Còn tôi, nhìn theo nàng. Những ngón tay của tôi đã dính máu của nàng. Không hiểu sao tôi đưa lên miệng mà mút mà liếm. Máu vẫn còn tươi. Mằn mặn. Tôi nếm và nghĩ là mình đang nếm vào chất vị của hạnh phúc. Tôi bỗng nhiên cám ơn định mệnh. Cám ơn những ngày khổ nhục. Cám ơn mùa hè. Cám ơn bụi hoa hồng sum sê cao ngất. Tất cả đã cho tôi một cơ duyên, dù chỉ là một khoảnh khắc của đời.

Có tiếng giục của tên trưởng toán chuẩn bị về lại doanh trại. Một ngày như mọi ngày. Rồi hàng rào dây kẽm gai lại vây bọc. Rồi giờ cơm, toán trực lảnh phần từ hoả đầu vụ. Khi thì com nhảo, khi thì cơm khê. Những con cá mối trường kỳ. Rồi một ngọn đèn nhỏ soi mờ. Rồi ngày nắng lửa vì mái tôn, nhưng càng về đêm thì lạnh cóng vì hơi đất, khí núi, và cũng từ mái tôn thấp ấy. Đó là cái thế giới mà người ta gọi là trại trừng giới thả lỏng. Vâng, chúng tôi đang trở thành những con vật người đây, trả nợ cho quân đội đây, các người hả dạ chưa.

oOo

Kể từ ngày ấy, tôi có dịp được hái thêm những cánh hoa hồng khác. Nàng yêu hoa ghê gớm. Và tôi đã cố lựa những cánh hoa đẹp nhất, tươi thắm nhất để hái cho nàng. Đôi khi gai nhọn làm xước da thịt tôi, nhưng đâu có hề gì. Bên tôi nàng huyên thuyên như con chim sáo, hỏi han đủ chuyện:

– Ông làm ở đây lâu chưa hở ông?

– Vâng. Bắt đầu từ mùa hè…

– Xin lỗi ông, em thấy sau lưng ông chữ LCĐB. Chữ gì thế. Tại sao ông lại mang như thế?

– Là Lao công đào binh.

– Lao công đào binh là gì hở ông ?

Tôi im lặng. Phải nói làm sao về một sự thật. Có nên đưa nàng xem những vết sẹo đã cày trên da thịt tôi. Có nên nói với nàng về một huy chương Mỹ, hai cái bạc, hai cái đồng và hai chiến thương  mà một thiếu úy đã có trên mặt trận?. Có nên nói về những người như bố mẹ và ngay cả nàng nữa lúc này đang có bao nhiêu người lính hầu hạ, ngay cả việc bắt chúng tôi phải khổ cực trong dinh thự nguy nga, sang trọng này, là một trong trăm ngàn cảnh bất công bất nhẩn mà bất cứ người lính nào có suy nghĩ cũng phải phẫn nộ.

– Xin lỗi đã làm ông buồn. Ông cần em giúp gì không. Em sẽ nói với bố em…Bố thương em lắm.

Tôi cảm động. Nhưng tôi phải thú thật. Tôi đã chọn quyết định và phải chấp nhận quyết định. Tôi luôn luôn ngững đầu trong mọi hoàn cảnh. Tôi bắt qua chuyện khác:

– Tôi đoán cô lên vùng này để nghỉ hè?

– Vâng. Ba tháng hè.

– Chắc cô nhớ Sài gòn lắm phải không?

– Vâng, nhớ lắm, thưa ông. Dưới đó em có rất nhiều bạn. Chẳng bù trên này, chỉ một mình. Bố mẹ em lại bắt em lên đây ba tháng hè. Chán ơi là chán…

– Xin lỗi, cô học lớp mấy?

– Lớp 11.

– Ban nào?

– Ban B.

– Ngày xưa tôi cũng từng dạy lớp 11. Tôi dạy về Toán Lý Hóa.

– Thế ư? Em rất dốt Toán. Ông giúp dùm em nhé.

– Lâu quá, tôi quên rồi. Tuy nhiên tôi sẽ gắng. Cô cứ đưa đề cho tôi, tối về trại tôi sẽ giải hộ cho.

                              oOo

Rồi một ngày tôi được lệnh trình diện viên thiếu úy tùy viên của bà vợ ông Tư Lệnh. Hắn ta nhìn tôi bằng cái nhìn kẻ cả. Tôi hiểu, dù cấp bậc thấp, nhưng cái chức tùy viên của hắn đã làm chức vụ hắn còn cao hơn cả những sĩ quan cao cấp khác.  Có lẽ hắn  nghỉ là hắn sắp ban cho tôi một ân huệ. Tôi sẽ phải chào tay hắn, hay phải đứng nghiêm trình diện. Còn khuya. Tôi khinh hắn thì đúng hơn. Cái con người chỉ biết xách bị  và xách dép cho những phu nhân.

– Văn phòng Tổng Quản Trị  cho chúng tôi biết là anh có cử nhân Toán, nguyên gốc giáo sư. Ông bà Tư lệnh cần một người kèm trẻ. Anh có thể ở ngay tại tư dinh, khỏi về trại nữa. Lát nữa ban quân trang sẽ đem đến bộ quần áo khác để anh thay. Anh khỏi mặc chiếc áo này.

Rõ ràng, hắn coi 4 chữ LCĐB sơn đen trên lưng áo của tôi như là một dấu hiệu của ô nhục. Tôi nhìn thẳng vào mắt hắn:.

–  Tư lệnh ra lệnh tôi dạy thì tôi dạy. Nhưng tôi không thể ở nơi này được. Tôi phải về lại trại. Tôi phải trả nợ những gì mà người ta bắt tôi phải trả. Nhờ thiếu úy trình lại với tư lệnh.

Tôi trả lời dứt khoát.

Phải. Tôi phải về  với họ. Về với những bếp lửa hằng đêm mà chúng tôi đã đốt lên, và tiếng hát buồn buồn, những đôi mắt nhắm lại, những râu tóc rối bù, những chiếc áo ngày càng dày vì mồ hôi khổ nhục, những tiếng mớ, và đôi khi ánh trăng lọt vào trại trừng giới, xanh và rất sáng như tắm đầy nền…, đến cả những đống lá khô mỗi sáng chúng tôi đốt lên, để chúng tôi càng ngồi lại gần hơn. Về cùng với cõi tăm tối lầm than mà chia nhau ngọn lửa, dù là ngọn lửa đốt lên từ thùng dầu hay đống lá khô. Về để chia chác với nhau nỗi ô nhục hay niềm hảnh diện thầm kín, vì họ đã dám thách đố cùng cái định mệnh của tuổi trẻ. Họ đã dám vượt ra khỏi cái móng vuốt của diều hâu.

Vâng, phải cám ơn em, cám ơn lòng từ tâm của một người con gái. Tôi biết chỉ cần nói một tiếng với em là tức khắc bộ đồ ô nhục này sẽ được vất đi, và tôi sẽ thành một người khác. Cấp bậc sẽ được phục hồi. Một chỗ tốt tại hậu cứ. Khỏi đi tác chiến. Vâng, tôi biết thế. Nhưng tôi không thể…

Và cuối cùng, người ta cũng chìu tôi. Có nghĩa là mỗi ngày  từ 9 đến 11 giờ  tôi đến dinh để dạy 2 người con của viên Tư lệnh. Đó là hai chị em. Hoàng Hương là chị. Và cô em, Hoàng Thúy, mới 10 tuổi. Con bé này khác với tánh chị, là một con bé rất bướng bỉnh, khó dạy. Có lẽ bởi ông bà Tướng quá nuông chiều nó. Hay cũng có lẽ là trong đầu óc thơ ngây của nó, nó chỉ thấy cái thế giới đầy quyền uy của bố. Tôi phải gắng nuốt nước bọt, lẫn cả cay đắng để vuốt ve, chiều chuộng hầu cho nó vui mà học. Một ngày nó đang ngồi trong phòng học, chợt nó kêu lên: Thầy ơi, có tổ chim, có chim con trên cây kia. Rồi nó chỉ cho tôi xem một tổ chim trên chóp cây giáng hương ngoài sân. Tôi không thể ngờ sau đó, nó lẻn ra ngoài, kêu ông trung sĩ quản gia trèo lên để mang những con chim con xuống cho nó. Sở dĩ tôi phải dài dòng ở đây, để nói về một trong những sự thật đau lòng mà tôi biết. Tôi bất mãn khi nhìn ông trung sĩ già trèo lên chóp cây. Ông đã phải làm vừa lòng một con bé. Không. Ông tuân lệnh cũng nên. Lệnh ông Tư lệnh. Lệnh bà Tư lệnh. Và lệnh tùy viên. Lệnh con cái ông Tư lệnh. Cũng như tôi đây. Tôi cũng đang tuân lệnh. Không ai dám cải lại, chống lại.

May mà tôi có Hoàng Hương. Người học trò mà mỗi ngày tôi càng khám phá thêm một nỗi rung động mới. Ở mái tóc xỏa xuống bờ vai thon mềm. Ở những sợi tóc mây phơ phất trên vầng trán thơm. Ở đôi má ửng hồng, đôi mắt đen lay láy. Ở vẻ suy nghĩ tội tình khi nàng cố giải một bài toán. Ở cây viết chì mà nàng cắn giữa hai hàm răng trắng như hạt lựu. Ở những hình chữ nhật hình tròn tam giác cân tam giác đều tam giác vuông vô tri mà nàng vẽ ra trên trang giấy. Ở mỗi lần nàng nhìn ra ngoài sân nắng, không biết nàng mơ mộng gì ngoài kia để tôi phải nhỏ nhẹ kêu nàng trở lại cùng trang sách học.

Tôi thầm kín nhìn từng sợi lông măng, từng sợi lông mày, cái lúm đồng tiền của nàng. Hai giờ cho mỗi ngày, trừ ngày chủ nhật. Tôi ra đề. Tôi bắt nàng đọc lớn. Đọc đi đọc lại cả chục lần. Nàng đọc, nhưng cuối cùng nàng lắc đầu nói: Em không biết giải làm sao. Thầy giải cho em đi. Tôi cười: Nếu tôi giải thì em cần gì phải học nữa.

Đôi khi con bé Hoàng Thúy lẻn ra ngoài, và căn phòng chỉ còn lại tôi và Hoàng Hương. Lúc ấy, nàng kể lại những ngày vui ở Sài Gòn. Nàng không biết gì về những gì xảy ra ở phía rừng, mặc dù bố nàng là kẻ ở trong cuộc. Nàng say mê nói về những đứa bạn, về ngôi trường đầm, về vỉa hè Lê Lợi, Nguyễn Huệ và những ly kem… Có khi nàng lại nói về những đứa con trai con cháu của những ông bộ trưởng hay tướng lãnh nổi tiếng trong những buổi dạ hội, hay đua đòi cùng những chiếc xe mới. Tôi thì nghe, và tự biết mình đứng ở ngoài thế giới ấy. Rõ ràng, chiến tranh đồng nghĩa với tội ác, với máu và nước mắt, với tai ương, nhưng nó cũng mang đến cho một số người những lợi nhuận, những đặc quyền đặc lợi mà trong thời bình chắc họ không thể có. Hoàng Hương, em phải cám ơn chiến tranh. Tôi muốn nói như thế. Nhưng tôi không thể nói. Nàng sẽ không bao giờ hiểu đâu. Tôi chỉ yên lặng nhìn lên gương mặt xinh đẹp và yêu đời. Tôi biết tôi đang níu kéo lại những giờ phút êm đềm hôm nay. Hãy sống cho một giờ. Và hãy chết cho một giờ.

Tôi thật sự sợ mùa hè sẽ chấm dứt.

                                 oOo

Cuối cùng thì mùa hè cũng chấm dứt. Và cuối cùng, người con gái cũng từ biệt tôi không một lời từ giã. Ngày cuối, tên tùy viên gặp tôi trao phong bì. Hắn nói: Đây là quà của bà Tư lệnh. Tôi nhận, biết chắc là những tờ giấy bạc mà người ta thưởng công. Nhưng cớ sao tâm hồn tôi lại rưng rưng. Một cánh chim đã bay trở lại đồng bằng, và còn lại một cây rừng hiu quạnh cùng những cơn gió núi. Tự nhiên lại nhớ đến lời ca dao: Đoạn trường nước chảy qua cầu. Gặp nhau sông núi trở màu đắng cay…

 Ngoài sân, những bụi hoa hồng rực thắm. Vài cánh hoa vươn cao, bừng rộ một màu huyết dụ…Tôi biết là nàng sẽ thích. Nhưng nàng đã xa. Làm sao tôi gởi nụ hoa hồng về phương trời dưới ấy?

Mùa hạn. Lửa càng ngày càng vây bủa thị trấn. Lửa theo đồng cỏ khô cháy nhanh, hung hãn như những trận sóng thần. Và lửa cũng theo những đầu đạn hoả tiển, hay trọng pháo vồ chụp xuống thị xã, đào thành những hố sâu, chạm vào kho xăng, dầu, bắt cháy bừng bừng. Cùng với lửa là sấm nổ. Những chớp lửa sáng loé ở bốn bề, càng lúc càng vây sát thị xã hơn bao giờ. Và người ta bỏ chạy. Người ta đào thoát. Trong khi ấy, lửa đã làm chúng tôi hồi phục lại cấp bậc nhanh chóng. Họ phát súng phát đạn, ra lệnh đơn vị trừng giới làm tuyến cản ở  phi trường. Họ dùng chúng tôi. A ha. Họ cần những kẻ mà họ xem là hèn nhát, sợ chết !

ít ra đây cũng là trận đánh để đời, để chúng tôi tự hào và ngẩng mặt

 

Mùa hạn. Lửa. ở đâu cũng thấy lửa. Càng bỏ chạy, lửa càng hung hản reo mừng, đùa rởn đuổi bắt. Mùa hạn hiếm gió, nhưng thật nhiều lửa. Và lửa đã đuổi em, đuổi tôi, đuổi mọi người chạy đến sức cùng lực tận. Thôi hết rồi một thời để mộng mị. Thôi hết rồi những bụi hồng hôm nào nở rực rở, và em cũng vậy, cũng rực thắm bên hoa. Tôi nói với lòng tội tình em bao nhiêu. Lửa đã cháy cả mái nhà dinh thự, lửa đã thiêu rụi tư dinh, lửa đã bắt cha em đi xa, và lửa đã đẩy em chân trần, chạy trên những động cát nóng bỏng, phỏng cả gót mềm. Và tôi cũng vậy. Mùa hạn, tôi uống nước vũng trâu, nước bùn đất. Tôi thay trâu kéo cày, tôi kiệt lực gánh những thùng nước về tưới cho những ngọn mạ như ngày xưa tôi cũng đã từng gánh những thùng nước cho viên tiểu đoàn trưởng tắm.. Mùa hạn. Tôi thấy em đẩy xe ba bánh, em con ông tướng, áo vá vai, căn chòi lá làm nơi dung thân, nước mắt cũng theo mùa hạn mà khô trên hai hồ lệ. Tôi nói với lòng, tôi thương em biết mấy. Muốn cứu em, em ơi. Chúng ta vẫn có một nơi trồng thật nhiều hoa hồng và tôi sẽ hái cho em những bông hồng tươi đẹp nhất, rực rở nhất.

Phải. em ơi, chẳng lẽ cuối cùng trời lại không đổ xuống một cơn mưa ân sủng ?

đôi mắt người sơn tây

Truyện thời chiến của Trần Hoài Thư

 

Buổi chiều có một người sống trôi nổi dưới những cánh rừng tràm, gian khổ cơ cực với muỗi vắt sinh lầy, đã trở về nói với tôi về huyền thoại của một con kinh, biên giới giữa hai xứ sở Miên Việt. Tôi mời y một điếu thuốc và một ly cà phê đen. Tôi hỏi về những ngày y ở ngoài Bắc, lặn lội trường chinh vượt Trường Sơn với những đoàn xâm nhập, chống chọi cùng bệnh tật, và bom đạn để rồi cuối cùng dừng quân bên kia bờ kinh Vĩnh Tế. Y vừa thả khói, vừa kể. Và một câu nói cuối cùng của y đã làm tôi thật sự xúc động:

–       Anh có biết kinh Vĩnh Biệt không?

Tôi lắc đầu chịu thua. Y thêm:

–       Kinh Vĩnh Tế đấy.

Tôi hỏi:

–       Tại sao gọi là kinh Vĩnh Biệt?

–       Bởi vì, mỗi lần chúng tôi vượt qua con kinh này, chúng tôi đều nghĩ ngay đến cái tiếng buồn não nùng kia. Chúng tôi thấy rằng đó là lúc chúng tôi phải vĩnh biệt tất cả. Vĩnh biệt gia đình thân yêu, vĩnh biệt quê hương, vĩnh biệt những ngày thanh xuân…

Tôi đã lặng yên để nghe những lời thành thật của người lính Bắc. Đây là lần đầu tiên, tôi được nghe về một câu chuyện bi thảm dành riêng cho con kinh mà Thoại Ngọc Hầu đã đào cách đây gần hai thế kỷ. Và đây cũng là lần đầu tiên tôi thấy rằng vùng đất mà tôi đã trải qua, luân lạc, không phải một vùng đất quen thuộc. Nó cũng không phải là một nơi trầm lặng, không gợi cảm, cũng như làm phong phú thêm cuộc sống nội tâm của con người. Tôi đã tìm ra một điều là dưới từng vuông đất này, đều có cả một huyền thoại, ở từng con kinh, con rạch, từng bờ ruộng, bờ vườn đều có những chuyện não nùng. Ngày xưa vùng đất mới này, là cả một lịch sử kỳ diệu, được tạo dựng bởi năng lực con người. Nhưng bây giờ, cũng có những câu chuyện buồn bã thay thế vào đó. Chẳng hạn, từ một cái tên Vĩnh Tế, hôm nay, cũng có những người thay vào bằng tiếng Vĩnh Biệt.

Đối với người trẻ tuổi gốc Hà Nội này, tâm trạng y là một biển bùi ngùi. Còn tôi, tôi cũng buồn không kém. Tôi đứng dậy, và ra ngoài sân. Tuy xung quanh tôi là nhà cửa, dinh thự bao bọc san sát và những ánh đèn đầu tiên của thành phố báo hiệu một đêm bình an, nhưng rõ ràng trong đầu tôi, lại rực rỡ hiện lên một con kinh màu nước phù sa vàng đục, chảy ngang qua cánh đồng bao la, dưới ánh mặt trời chiều vàng vọt. Con kinh ấy như một giới hạn não nùng chảy vào tâm hồn tôi. Bằng một chuyện tình xa xôi. Bằng một kỷ niệm không bao giờ phai nhạt được. Tuy hai bờ cách xa nhau mười mấy thước nhưng rõ ràng, khoảng cách đã quá diệu vợi, ngăn cách trùng trùng. Và từ câu lạc bộ tiếng hát của Thái Thanh vẳng lại bài Đôi Mắt Người Sơn Tây. Tự dưng ma quỷ bắt đôi chân tôi bước lại quán, con tim tôi như nhòa lệ. Đôi mắt người Sơn Tây. U uẩn chiều lưu lạc. Buồn viễn xứ khôn khuây. Buồn viễn xứ khôn khuây… Trên bầu trời sẩm nhạt, in những cánh chim én. Những cánh chim én của mùa xuân ấy đang lượn vờn như một điệu luân vũ. Thì ra mùa xuân đã lại trở về. Thì ra kỷ niệm đã như những cánh én kia, xa vắng một năm, bỗng một chiều đột nhiên trở lại…

Trước ngày ngưng bắn, tôi là kẻ thường vượt qua giòng kinh Vĩnh Tế nhiều nhất. Bởi nghề tôi bấy giờ là phóng viên chiến trường, đặc biệt về chiến trường ngoại địa. Hơn nữa, tôi coi vùng này là một vùng đất cần phải khám phá, học hỏi, giúp cho cuộc sống tôi rất nhiều trong hoài bão mà tôi từ lâu ấp ủ: là viết văn. Tôi sẽ là một chứng nhân của một Đông Dương bất hạnh. Tôi sẽ mở rộng tầm mắt, chữ nghĩa, vượt ra ngoài cái thế giới nhỏ hẹp rêu phong của cuộc sống thường nhật. Tôi muốn tìm xem ở bên kia bờ kinh Vĩnh Tế, chiến tranh là gì, đau khổ là gì, bom đạn là gì, chủ nghĩa là gì. Cho dù, những thứ ấy như một bài học quen thuộc mà mỗi ngày tôi đã gặp phải, đã chứng kiến. Cho dù, tôi hiểu rằng trên mặt địa cầu này, chiến tranh quả là một chuyện thường tình, như một biến chuyển của lịch sử. Ấy vậy, bằng cõi lòng tham vọng vô bờ, tôi vẫn lên đường. Tay xách máy ảnh. Túi đựng cuốn sổ tay, và cây bút. Thế là tôi khởi hành. Khởi hành trong bất cứ thời gian không gian nào. Từ trực thăng, hay trong thiết vận xa hay theo một đoàn quân tiếp ứng lội bộ, tôi vượt qua biên giới. Nói là biên giới, nhưng thật ra, nó chỉ là con kinh nhỏ hẹp, như trăm ngàn con kinh ở miền đất tôi về mà thôi. Nó không phải hung vĩ, bí mật và phân định rõ ràng như rặng Trường Sơn, hay một ranh giới thiên nhiên nào khác. Và cũng vì lý do đó, khi xuống chiếc đò đưa qua bờ, lòng tôi cũng chẳng hề rung động là bao nhiêu. Ngoại cảnh như một bức tranh thường tình. Vẫn là đồng lúa xanh rì, vẫn là những khóm thốt nốt trơ trọi in bóng bên bờ ruộng. Vẫn một mặt trời rực rỡ giữa một từng không chói chang.

Nhưng rõ ràng, càng đi sâu vào nội địa xứ người, tôi lại càng gặp biết bao nhiêu câu chuyện đáng để ghi nhớ. Từ pháo tháp của một thiết vận xa, giữa một cánh đồng tháng chạp trong mùa nước lớn, tôi đã bấm máy ảnh lia lịa. Mỗi hình ảnh qua đi là một biểu tượng đẹp não nùng. Từ ngôi chùa mái ngói cong vút màu đỏ thắm ẩn hiện giữa những kẽ lá của hàng thốt nốt. Từ những sóc dưới chân núi đồi, như bao phủ bởi một bầu không khí của thần linh tôn giáo. Từ những ngôi chùa đầy ngập người tản cư… Đó là những hình ảnh mà tôi đã gặp phải trong toàn cõi Đông Dương. Chúng cũng xảy ra ở Lào, Việt Nam. Và chúng đã làm cho một kẻ bàng quan nhất cũng phải đặt câu hỏi: Chiến tranh và tôn giáo. Cái nào là sức mạnh? Tuy nhiên, theo tôi, vấn đề đã đặt ra quá lớn lao. Tôi còn phải học, học thật nhiều. Với tôi, tôi không phải là một kẻ tham dự. Mà là một chứng nhân.

Vào một ngày đầu tháng chạp, tôi mang đồ nghề theo chân một đoàn thiết vận xa về giải tỏa áp lực địch tại T., một thành phố nằm trên con đường số 1 nối từ  Neak Loeung đến Thủ đô Nam Vang. Buổi tối có mưa sùi sụt, đám quân dừng đêm tại một đồng không mông quạnh và mênh mông nước, để sáng sớm tinh sương hôm sau mới tiến chiếm mục tiêu. Ngồi trên pháo tháp lạnh lẽo, bên cạnh người bạn mới quen, tôi kể lại những ngày ở thành phố, những buổi chiều của Bonard, Mai Hương và bạn thì kể lại những ngày dài ở xứ lạ quê người. Trời tối như mực, đến nỗi cảnh vật cách xa chừng 4, 5 thước, mắt người cũng chẳng nhận ra nổi. Thỉnh thoảng vài trái sáng được bắn lên từ bên kia rặng núi, soi cả một thinh không trong giây phút, rồi tắt lịm.

Người bạn bỗng nói:

–       Có bao giờ anh nghĩ rằng ở giữa vùng đất này lại có một người con gái như trong một bài thơ của Quang Dũng?

–       Có phải là Đôi Mắt Người Sơn Tây?

–       Vâng.

Rồi bạn vừa đốt thuốc vừa kéo cao cổ áo lạnh. Cơn mưa đã dứt, nhưng khí lạnh lại bốc tỏa đầy trời. Bạn lại giục tôi:

–       Trước khi kể câu chuyện, mời anh uống một chút rượu cho ấm. Rượu mang từ quê nhà đấy…

Tôi nghe lời bạn. Hớp rượu nồng nàn cả châu thân, như những giọt hạnh phúc nho nhỏ của một đêm trên vùng binh lửa. Tuy nhiên, thú thật tôi đã bỏ quên những nỗi bất trắc, hiểm nguy ra ngoài. Với tôi, đêm như một cơn mộng, và một tình nhân. Tôi chẳng còn để ý đến những tràng súng nhỏ thỉnh thoảng cắt xé cả một lòng tĩnh mịch. Tôi cũng chẳng còn quan tâm đến những tin tức đang giục giã trong máy siêu tần số bên cạnh. Và lời bạn nồng nàn:

–       Rồi ngày mai, tôi sẽ đưa anh đến một quán nghèo giữa quận K. Anh sẽ gặp một thiếu phụ trẻ. Hy vọng anh sẽ có nguồn cảm hứng để viết.

–       Người thiếu phụ ấy có liên quan gì đến anh?

Người bạn lắc đầu:

–       Không. Nhưng liên quan đến tất cả chúng ta. Nhất là anh?

–       Tại sao vậy?

Người bạn thiết giáp cười thật bí mật:

–       Anh là phóng viên, chắc anh đoán được.

–       Bạn nói hơi quá. Phóng viên chỉ là một chứng nhân. Tôi đến để ghi nhận, khám phá. Tôi không phải là thầy tướng số.

–       Ừ, xin lỗi. Nhưng, với một tâm hồn dễ xúc cảm của một nhà văn, chắc anh đã đoán được.

Tôi cười:

–       Thôi tôi xin chịu thua. Anh kể tiếp về người thiếu phụ Miên đó đi.

–       Không phải là người Miên, mà là người VN.

–       …?

Bạn vất mẩu thuốc xuống ruộng nước, rồi tiếp tục hớp khẽ từng hớp rượu đắng. Đêm nặng và đầy sương. Một trái sáng lại bắn lên từ hướng Bắc. Giọng bạn ấm:

–       Bởi thế tôi mới gọi là đôi mắt người Sơn Tây. Vâng, tôi không ngờ, hai mươi năm về sau, cũng có đôi mắt của  một người Sơn Tây để mình bồi hồi nhớ lại mấy câu thơ tuyệt vời: Em ở thành Sơn chạy giặc về, Tôi từ chinh chiến cũng ra đi hay Đôi mắt người Sơn Tây, U uẩn chiều lưu lạc. Buồn viễn xứ khôn khuây… Buồn viễn xứ khôn khuây… Anh biết không, nàng chính là một người Việt. Một người Việt một trăm phần trăm. Khi đơn vị tôi đến quận K., bọn tôi nhào xuống chợ tìm mua một vài vật dụng cần thiết. Riêng tôi, tình cờ tìm đến một ngôi quán nhỏ bên đường. Và người bán hàng quả làm cho tôi ngạc nhiên hết sức. Da nàng trắng muốt, gương mặt thùy mị, tuy nỗi cam khổ đã thấy rõ ở những ngón tay, quần áo của nàng. Rõ ràng là một cánh hoa lạ. Trong khi dân tộc nàng, màu da vàng mặt, thì màu da của nàng lại trắng nuột… Tuy nhiên, thú thật với anh, điều này chẳng làm tôi để ý đến bao nhiêu.

Giọng nói của người bạn sũng buồn:

–       Vâng. Thú thật tôi đã coi nàng như tất cả những phụ nữ Miên khác. Bởi cách ăn mặc, giọng nói của nàng. Bởi cung cách của nàng. Tôi đã bập bẹ vài tiếng Miên học lóm được, để diễn tả vài điều cần nói. Nhưng về sau, tôi bỗng nhiên nghe được một tiếng mẹ đẻ Thưa Ông. Điều mà tôi sửng sốt là giọng nói ấy là một thứ giọng Bắc. Một giọng Bắc chính cống. Rất dịu dàng. Rất dễ thương, nhất là người ấy là người con gái Bắc thì quả là một điều phi thường. Nhất là quê hương tôi là đất Bắc…

–       Nàng nói gì không?

–       Nàng hỏi quê nhà mình dạo này ra sao? Bên mình hòa bình chưa? Nàng nhớ nhà quá. Còn tôi, tôi hỏi nàng gốc người ở đâu, tại sao lưu lạc ở mãi vùng đất này.

–       Nàng bảo sao?

–       Nàng nói nàng sinh tại Sơn Tây. Rồi nàng tấm tức khóc. Sau đó, có chồng nàng đến. Nàng chắc sợ một điều gì đó, nên đã giả vờ vui, rồi nói tiếng Miên huyên thuyên. Tôi muốn hỏi thêm, nhưng lệnh lại ban xuống là đơn vị phải di chuyển gấp. Thành ra tôi chẳng biết gì thêm về nguồn gốc và lịch sử một người thiếu phụ đáng ghi nhớ kia…

–       Quả chuyện của anh như một bài thơ.

–       Phải. Như một bài thơ của Quang Dũng.

Ngừng một lát, rồi người bạn nói tiếp:

–       Ngày trước thú thật, khi đọc bài Đôi Mắt Người Sơn Tây của Quang Dũng, tôi xúc động vì sự xuất thần của nhà thơ. Về câu chuyện tình tuyệt vời mà nhà thơ của chúng ta đã sáng tạo, về những nét gợi cảm của từng chữ nghĩa, cũng như cách gieo vần…

–       Hơn nữa là cốt cách tiểu tư sản dấn thân của chàng trai Hà Nội…

–       Vâng. Khi chúng ta đọc bài Màu Tím Hoa Sim hay Đôi Mắt Người Sơn Tây, chúng ta chỉ biết rung cảm cùng những nhân vật, khung cảnh, thời gian trong thơ. Nhưng bây giờ, thật sự tôi đã thấy rõ thật thấm thía một câu chuyện tình lồng trong bài thơ kháng chiến. Bởi hai ba mươi năm sau, lại có một người con gái Sơn Tây hiện đến với tôi. Anh nhớ những câu thơ này không: Đôi mắt người Sơn Tây. U uẩn chiều lưu lạc. Buồn viễn xứ khôn khuây. Rõ ràng từ khi gặp nàng, mỗi khi đọc lên những câu thơ đó, là lòng tôi lại vương lên một mối sầu. Chỉ có cái giọng nói dễ thương thốt lên trong giây phút. Chỉ có tiếng nói Thưa Ông. Chỉ có màu da trắng mượt lạc loài giữa một giống người lạ là có cả một câu chuyện lớn. Anh là nhà văn. Dĩ nhiên tâm hồn anh nhạy cảm hơn tôi. Dĩ nhiên, anh đang đi tìm đề tài. Tôi sẽ mang anh lại vào sáng mai. Đó là cả một đề tài lớn. Tôi tin vậy. Người bạn vất mẩu thuốc cháy dở. Một trái sáng lại òa vỡ, và mắt bạn trở nên lung linh xa vời. Anh lại nói:

–       Anh nên nhớ là tôi cũng thường xuyên theo dõi sách báo văn nghệ. Có một điều làm tôi ngạc nhiên là sự vay mượn câu chuyện, tình tiết của người ta nhiều quá. Từ chuyện tình đến chuyện chiến tranh. Tôi xin lấy ví dụ là các nhân vật trong Love Story, hay Roméo et Juliette, hay các tác phẩm của Remarque lại được thổi phồng, thi đua khai thác. Tôi thấy nước mình, hoàn cảnh của bọn mình, có hằng ngàn câu chuyện cảm động quyến rũ, tình tiết và thơ mộng hơn thế nữa.

–       Tôi ghi nhận ý của anh.

Và tôi cười:

–       Nội cái câu chuyện Đôi mắt người Sơn Tây của anh quả là một câu chuyện tình tuyệt vời rồi còn gì.

–       Anh là nhà văn, tôi xin nhường tất cả cho anh đó. Còn tôi, lưu lạc mãi sống cùng cái chết từng giây từng phút thì giờ đâu…

 

@@@

 

Vào sáng ngày mai, cả đơn vị lại lên đường. Tôi đi theo thiết vận xa của người bạn, mà cõi lòng nôn nao vô cớ. Không phải tôi sợ những quả đạn, pháo bất ngờ từ ngọn núi rơi xuống, hay một trận phục kích nào đó bất ngờ xảy ra. Những điều này chắc không bao giờ xảy ra. Bởi đơn vị tôi đi theo là một đơn vị thiện chiến. Họ đã chiến đấu giỏi và đã từng tham gia nhiều trận đánh khủng khiếp hơn thế nữa. Với lại, đoàn thiết vận xa đang ở giữa một đồng nước mông mênh khó lòng địch nhắm trúng mục tiêu. Nhưng tôi phải thú thật rằng, tôi đang bị hình ảnh người con gái chưa gặp gỡ, chưa quen biết kia đã đớp hồn tôi thật sự rồi. Tôi cũng chẳng hiểu tại sao nữa. Hay vì giòng máu văn nghệ của tôi. Hay vì tôi đã thấy được một đề tài đẹp và thơ mộng trong chuyện vượt biên này. Hay vì hình ảnh bài thơ tuyệt vời mà tôi đã ưa thích ngay từ khi cầm sách đến trường trung học. Chưa chi mà trí não tôi đã vẽ vời bao nhiêu tình tiết, xây dựng nên những nhân vật, mà dĩ nhiên nàng thiếu phụ lưu lạc kia là nhân vật chính, và cả tôi nữa. Tôi phải làm gì đây. Lòng tôi chợt bị khích động. Tôi nghe dòng máu của mình cuộn chảy. Trời đất vẫn quen thuộc khi chúng tôi đi qua. Những người Miên thấy chúng tôi chắp tay cung kính như phong tục của một dân tộc ngoan đạo Phật. Những ngôi chùa mái cong vút lên mây ẩn hiện đằng sau những khóm dừa, khóm thốt nốt. Những ngôi nhà sàn trong sóc, còn thở khói. Đám con nít nhìn đoàn quân cười thơ ngây. Trong gió, chừng như nghe mùi đất, mùi rơm và cả mùi ngây ngây của luống cầy mới vỡ. Có những cánh én bay rợp xuống mặt nước, rồi vút lên cao. Có những cánh én đuổi theo sau những chiếc vận xa, giỡn đùa cùng những ống nước mới vỡ. Bầu trời thật xanh, như mùa xuân. Có ai đã nhắc đến mùa xuân rồi. Gần đến Tết rồi. Anh em ơi. Giọng nói mang vào lòng những đứa con của chiến trường một niềm nhớ nhung tràn ngập. Riêng tôi, tôi mải đuổi theo những cánh bướm để mua vui. Tôi đã mỉm cười với chúng, với trò chơi nghịch ngợm của một loài chim của mùa xuân. Đối với tôi, loài chim ấy hình như đã có một sự liên hệ mật thiết. Chúng theo tôi như một niềm ân sủng. Chúng từ một cõi nào đó, ngoài thềm lục địa, trở về vui vầy cùng loài người rồi lại ra đi. Như một ngày gần cuối năm này. Chúng hết lượn vờn trên cao rồi sà xuống thấp, sát xuống những bọt sóng. Chúng vô tư, tinh nghịch, chẳng hề biết trên thềm lục địa này có những tai ương bất hạnh triền miên.

Và đúng như lời của người bạn, buổi trưa cả đơn vị dừng quân tại ngay trung tâm quận K. Người bạn đã nháy tôi và cả hai tìm đến ngôi quán bên đường. Và tôi đã gặp người thiếu phụ trẻ ấy. Tôi xúc động, trước màu da trắng mượt, đôi mắt to và linh động, cùng sóng mũi dọc dừa của nàng. Nàng quả là một bông hoa lạ và lẻ loi ở quận lỵ. Tuy mái tóc của nàng rối, chiếc sà rông đã bạc màu, vá víu, những ngón tay, bàn chân của nàng đã in dấu lầm than, nhưng người ta vẫn tìm ở người thiếu phụ này một vẻ đẹp nổi bật, vượt lên giữa một tập thể dân quê nghèo nàn và khổ cực này. Quả bạn đã nói đúng. Đó là một người con gái Sơn Tây. Nhất là ở đôi mắt kia, đã chứa cả một bầu trời u uẩn. Khi đôi mắt ấy nhìn lên, tuồng như người ta thấy bâng khuâng. Và tôi chỉ biết ngồi yên, đôi mắt hớp hồn. Tự dưng tôi cảm thấy thương nàng quá. Chỗ của nàng không phải là chỗ này. Chỗ của nàng là chỗ khác. Ở bên kia biên giới có đồng loại. Có tiếng mẹ đẻ. Có ao nhà, vườn rau. Và hơn nữa, với vẻ thanh tú của nàng, chắc gì nàng không được một người chồng khá giả, danh vọng? Tôi muốn nói lên một lời Việt cùng nàng. Nhưng cuối cùng tôi chẳng dám. Tôi nhìn chiếc sà rông màu vàng thẫm kia, thấy nhói ở tim.

Nắng đã lớn, tươi thắm cả khu quận. Người bạn chợt giới thiệu bằng tiếng Việt:

–       Đây là người bạn của tôi.

Tôi cúi đầu chào làm quen. Người thiếu phụ cũng cúi đầu đáp lễ. Tôi nhận ra đôi vai của nàng mềm quá. Người bạn lại nói tiếp:

–       Hôm qua, cô kể cho tôi nghe nửa chừng. Tại sao thế?

Để đáp lại câu hỏi của người bạn, nàng chỉ nói:

Các ông không hiểu hoàn cảnh của em đâu.

Tôi nói:

–       Cô có thể cho tôi được biết không?

Đôi mắt của thiếu phụ chợt hoe đỏ. Nàng nói giọng sũng lệ.

–       Thấy các ông, em bỗng nhiên nhớ đến quê nhà quá. Đã mười mấy năm xa cách, em chưa được về. Thưa ông, từ đây qua bên ấy, có xa không?

Câu hỏi của người thiếu phụ đã làm tôi quá chừng xúc động. Thì ra, ở cánh hoa lạc loài này có cả một tâm sự u uất. Tình hoài hương của nàng đang trở về mãnh liệt. Người bạn đưa mắt nhìn tôi như cùng trao một ý nghĩ. Rồi anh đáp:

–       Quê mình chỉ cách nơi này non 15 cây số, dùng đường bộ mất khoảng nửa giờ là đến.

–       Thế sao? Em không hề biết.

–       Chứ cô không bao giờ nghe nói đến quê nhà sao?

–       Dạ không.

Rồi nàng lại hỏi:

–       Không biết giờ này bên ấy nóng hay lạnh, trời có thường mưa không?

–       Bên nhà, trời đã bắt đầu có những cơn rét cuối năm. Có nơi mai bắt đầu nở hoa. Người ta đang sửa soạn ăn Tết rồi.

–       Thế ư? Gần đến Tết rồi ư?

Đôi mắt người thiếu phụ sậm buồn. Nàng nói như không:

– Không ngờ, em lại làm kẻ mất quê hương. Các ông biết hoàn cảnh của em đau đớn lắm…

Nàng lại tấm tức. Tôi chỉ đợi nàng có bấy nhiêu. Và tôi tìm cách khơi mào câu chuyện:

–       Cô có thể kể ra được không?

Nàng gạt nước mắt kể. Giọng nói của người con gái Sơn Tây mang theo những kỷ niệm đau thương. Từ một quê hương xa lắc xa lơ ngoài Bắc, với những cơn gió rét đầu mùa, với những nàng con gái có tiếng là xinh đẹp. Từ những ngày đầu tiên theo cha mẹ di cư vào Nam, quanh quẩn dưới rừng lá cao su, chưa bao giờ nghĩ đến một ngày rời xa cái thế giới bé nhỏ mà những người mộ phu đồn điền hầu như đã gửi trọn đời mình. Ở đâu? Nàng đã quên địa danh. Nhưng nàng kể đến ông chủ đồn điền người phương xa, mỗi ngày lái xe khắp cả đồn điền để trông coi đám phu cạo mủ, khiêng tải những thùng nhựa trắng đến nhà máy. Ở đâu? Nàng chỉ nhớ lại những tiếng chuông buổi sáng chủ nhật, từ gác chuông ngôi nhà thờ bằng ván tạp với ông linh mục già, hàm râu trắng mượt, đội chiếc beret đen, lúc nào cũng cười, và cho bánh lũ trẻ trong đồn điền. Ở đâu? Nàng lắc đầu. Nhưng nàng kể về những cảnh cơ hàn của những dân phu, gồm đủ hạng người: gồm Thượng, Miên và Việt. Và chúng tôi liền đoán ra đó là Lộc Ninh cũng nên.

Rồi tai họa bỗng nhiên bủa xuống như một trận bão kinh hoàng. Trận chiến từ đâu lại, chọn ngay đồn điền của nàng, ròng rã cả một tuần lễ. Nhắc đến đây, đôi mắt nàng tuồng như đầy ngập cả một bầu trời sầu thảm. Nàng bật run đôi vai, hai dòng lệ tuôn trào rồi lăn trên hai gò má. Tuy buổi trưa nắng lửa, hàng cây bên đường bất động và thinh không chói lọi, đất đai bốc khói, nhưng tôi nghe tuồng như có một cơn gió lạ chợt thổi qua, rồi một đám mây buồn bã như đậu lại trong hồn người, như một phiến băng giá. Buổi trưa hôm nay, trong một quán lá xứ người, vừa xảy ra một câu chuyện u uẩn. Buổi trưa hôm nay, tại một vùng đất xa lạ đang sôi sục vì khói lửa chiến tranh, có một người thiếu phụ trẻ Sơn Tây gặp lại những người lính đồng hương, để cùng nhau kể lại những ngày tháng trong thời kỳ binh lửa. Đầu nhà bên kia đường, có giàn hoa giấy vàng tươi thắm dưới ánh nắng rực rỡ. Nhưng ở bên này có một nụ hoa tội nghiệp đáng thương.

 

–  … Sau đó…

Sau đó… Nàng vừa vuốt tóc thằng con mấy tháng của nàng, vừa kể. Sau đó, cả gia đình nàng thất lạc một người một ngả. Riêng nàng, có một gia đình người Miên cứu thoát và mang về đất Miên. Khi ấy, nàng chừng 12, 13 tuổi là cùng.

–  Cho đến lúc này, em cũng chẳng biết số phận của cha mẹ em ra sao nữa…

Nàng mếu máo trong tiếng khóc. Có ai vừa đâm mũi dao vào lồng ngực tôi. Tôi nói cùng nàng:

–  Cô có thể cho tôi biết về tên tuổi bố mẹ. Khi trở lại quê nhà, tôi sẽ cố thăm dò giúp giùm cô.

Nàng nghe lời. Tôi lấy sổ ghi tên tuổi. Rồi tôi nói thêm:

–  May ra. Khi trở lại nơi này, tôi sẽ mang theo tin mừng.

–  Dạ. Em cảm ơn quý ông. Các ông làm em cảm động quá.

Trên trời, bỗng hiện ra những cánh én. Cánh én báo hiệu một mùa xuân sắp sửa về. Tôi thốt lên vu vơ:

–  Tết cũng sắp sửa lại về.

–   Vâng. Nhưng đời em chẳng có bao giờ biết đến Tết cả. Nhớ đến ngày xưa, đêm giao thừa, cả nhà quây quần bên nồi bánh tét. Bây giờ điều ấy đã không bao giờ có nữa.

Người thiếu phụ chỉ nói bấy nhiêu. Còn hai đứa chúng tôi chỉ biết đốt thuốc thương cảm nỗi niềm tâm sự của một cánh hoa đồng hương. Giữa lúc ấy, lệnh lên đường lại giục giã. Người bạn chỉ tôi và nói cùng nàng:

–  Hy vọng anh bạn của tôi sẽ đem lại tin vui cùng chị.

Còn tôi, bấy giờ, một ý nghĩ táo bạo chợt nổi dậy. Tôi nói:

–  Hay là chị hãy trốn về quê nhà. Chúng tôi sẽ giúp đỡ chị.

Người thiếu phụ lắc đầu:

– Em cũng mong có ngày về thăm quê hương. Nhưng còn con cái. Bỏ đi tội nghiệp chúng quá. Em không nỡ…

Tiếng còi tập họp lại vang rền ngoài đường. Chúng tôi bịn rịn từ biệt. Đôi mắt người Sơn Tây hoe đỏ nhìn theo chúng tôi. Đôi mắt tội nghiệp làm sao. Hồn bài thơ xưa chợt bay về, và tôi thấy lại những câu thơ não nùng: Đôi mắt người Sơn Tây. U uẩn chiều lưu lạc. Buồn viễn xứ khôn khuây. Buồn viễn xứ khôn khuây… Tôi quay lại nhìn nàng như muốn uống trọn cả hình ảnh một loài hoa lưu lạc một lần cuối cùng. Tôi muốn ghi nhớ mãi giọng nói dịu dàng dễ thương của một quê hương xa vời nào đó. Tôi muốn mang theo vĩnh viễn gương mặt hao gầy, những sợi tóc mây, chiếc mũi thanh tú, và nhất là đôi mắt. Và lòng tôi thầm nhủ: Hãy về bên nhà, hãy cố gắng tìm ra tung tích bố mẹ nàng. Để trong ngày trở lại, tôi là kẻ mang theo một tin mừng. Đó là cách duy nhất để giúp đỡ một người đàn bà bất hạnh. Đó cũng là một bổn phận thiêng liêng nữa.

Điều ấy chắc chắn tôi sẽ thực hiện được. Bởi vì tôi là một phóng viên. Chỉ cần nhắn tin trên vài tờ báo, hay đọc trên đài phát thanh. Sau đó, tôi sẽ xin phép đi làm phóng sự ngoại biên và sẽ tìm lại nơi chốn cũ. Tôi cũng tự bảo lòng, là sẽ mang tặng nàng một món quà Tết của quê hương. Chẳng hạn một đòn bánh Tết, bánh chưng, hay một thẩu dưa món, một gói mứt.

Ừ, tại sao tôi lại bận tâm đến nàng nhiều quá. Hay ở nàng tôi đã bắt gặp những niềm rung cảm, những xúc động chân thành như trong bài thơ kia. Tôi chính là người lính chiến lưu lạc và nàng là một người con gái trôi nổi tha phương.

 

@@@@@

 

 

Nhưng tôi sẽ chẳng bao giờ có dịp trở lại chốn cũ ấy nữa. Hiệp định ngưng bắn đã không cho phép tôi vượt qua dòng Vĩnh Tế ấy nữa. Món quà xuân cho người thiếu phụ xa xăm kia đã trở thành một món quà nước mắt. Và tin mừng kia cũng chẳng có bao giờ được bay đến ngôi quán bên đường trong quận lỵ K. nữa. Thỉnh thoảng, tôi lại được về bên này kinh Vĩnh Tế biên giới Miên Việt. Mà mỗi lần về như thế, tôi đều đứng lặng, mắt dõi về bên kia bờ kinh, trên cánh đồng bao la xanh màu mạ, trên những rặng thốt nốt, rặng núi thẫm trong mây, mà vẽ vời nên một hình bóng cũ. Ở đấy, có người thiếu phụ trẻ cùng màu da, cùng tiếng nói của tôi đang trải qua những ngày tháng mỏi mòn bất hạnh. Ở đấy, có một đôi mắt, mà tôi gọi là Đôi mắt người Sơn Tây, như một thiên tình sử não nùng. Tôi tưởng tượng ra, đôi mắt ấy đang đăm đăm nhìn về hướng quê nhà, mà chờ đợi một tin mừng, một món quà của quê hương, để cuối cùng phải hoài công trông đợi.

Còn riêng tôi, đứng trên bờ kinh, tôi cứ ngỡ đứng trên một điểm cuối cùng. Tôi sẽ không bao giờ được nhìn lại cánh hoa tuyệt vời kia nữa.

 

Trần Hoài Thư

(trich truyện thời chiến)

Ma Bình Định…

Trần Hoài Thư

1.
Không phi pháo, không dọn đường
Có chăng là  chiếc la bàn trên tay
Kim dạ quang chỉ hướng này
Trong đêm thăm thẳm chõ nào có ma?

2.

Này  ông tiền sát Ê đê
Sao ông lại xuống xứ này tìm ma
Xứ ông ma cái đòi gà

Bình Định ma cái có tài xẻo chim

3.

.
Ai về Bình Định mà coi
Con ma  Bình Định chuyên chơi mẳng cầu
Mẳng cầu có sợi dây câu
Ngụy trang cùng khắp trên đầu dưới chân
4.
Ma Binh Định độc vô cùng
Hết ông lão đến bà già trẻ con
Bề ngoài dạ bẩm thưa quan
Bên trong là cả một thùng dao phay

5.

Ma Bình Định là chúng tôi
Đêm đêm bôi lọ xuống đồi làm ăn
Tìm về mật khu xa xăm
Giả làm ma xó
đi bắt hồn Bắc quân

6.

Có đêm nằm ẩn mương hồ
Tinh sương được lệnh đội mồ xung phong
Ma bấy giờ, ma hiện hồn
Khiến cho “đông chí” phải kinh hoàng, đứng tim

Nguyễn Bạt Tụy – Những nhà xưa ở Quảng Nam

Lời chũ Blog: Tôi vừa nhận từ  một thư viện đại học Mỹ  tài liệu do tôi yêu cẩu: Đó là bài nghiên cứu của học giả Nguyễn Bạt Tụy  về Những Nhà Xưa ở Quảng Nam đăng trên Văn Hóa Nguyệt San số 59, 60 năm 1961. ..
Tạm thời  tôi chỉ đăng hai trang đầu tiên và hình vẽ  để bổ túc vào sự thiếu sót của bài mà các trang mạng đã post trên NET. Nhất là hình vẽ. Trong bài  tác giả Nguyễn Bạt Tụy đã mượn hình vẽ rất nhiều lần để mô tả về cách kiến trúc, nhưng trong bài post trên các trang mạng này không có lấy một hình ! Đó là chưa nói về việc bỏ nhiều đoạn rất quan trọng. Hy vọng một ngày tôi sẽ post trọn bài nghiên cứu rất công phu này .

nbt-5nbt-6

nbt-7

Nghe thơ chiến tranh của THT ( do Ca sĩ Duy Trác đọc)

Thơ Chiến tranh của Trần Hoai Thư

Eo chết
Địch cho trung đội qua eo chết
Hai bên sườn, đại liên đan nhau
Nổ. Nổ dòn.
Đất đá kêu đau
Sủi bọt,
Khói bốc lên,
Bốn bề dội vào vách xám

Một hai ba, lộn, nằm co quắp
Còn lại, vẫn ào lên, ào lên
Đừng bò! đừng bò!
Trung đội phó hét cuồng điên
Cỏ tranh bắt mồi cháy mạnh
Gió tạt, khói mù
Bốn bề khói rợp
Xé cay trên cặp mắt nổ tròng
Khắp bốn bề gào thét xung phong !
oOo

Cao điểm chiếm rồi
Vui mừng quá độ
Mà sao, người truyền tin rơi lệ
Báo cáo trong tiếng mất tiếng còn
Về những thằng
bị kiến cắn ngủ yên(1)

(1): tử trận

Bài viết của Cao Vị Khanh. Người đọc: Duy Trác. Thực hiện DVD: Tống Phước Cường

Phấn 1:

Phần 2:

Phần 3:

Từ một trang sách, nhớ những đồng đội cũ

405thamkich

Trên đây là trang sách rút từ tác phẩm “ Nationalist in the Viet Nam Wars: Memoirs of a Victim Turned Soldier” của NGUYEN CONG LUAN, có nhắc đén đơn vị tôi: đại đội 405 thám kích thuộcsư đoàn 22 BB.

Qua cuốn hồi ký, tôi hiểu tác giả không phải là chỉ huy trực tiếp đơn vị tôi, nhưng là chỉ huy gián tiếp. Có thể đại đội tôi được tăng phái cho cuộc hành quân mà ông là người có thẩm quyền điều động. Một đọan ông đề cập nhiều đến thám kích là đọan ông kể về  hành động gan dạ của 2 người lính thám kích thuộc  đại đội 405 thám kích   trong việc diệt một hầm có 5 tên địch xâm minh.  Dù  ông đã xử dụng nhiều biện pháp như thuyết phục chiêu hồi, bắn M79 dọa dẩm với mục đích là để họ còn được sống…  nhưng đổi lại là địch vẫn ngoan cố, không chịu đầu hàng. Cuối cùng ông ra lệnh phải  diệt hầm. Nhưng vấn đề chính là giải quyết làm sao, tìm cách gì  trong khi hầm thì kiên cố ?, ngụy trang rất khéo, trong khi 5 tay súng dưới hầm chờ đợi sẵn ?.

Với một đơn vị súng ống đầy đủ yểm trợ tối đa thì chỉ cần một quả bom, một quả đạn pháo thì có thể tiêu diệt ngay, tuy nhiên với một đơn vị chỉ trang bị súng ống nhẹ như thám kích, thì rất khó khăn.
Trưốc tình thế như vậy, thì có hai người lính thám kich tình nguyện. Ông viết như sau:

…At last, two of the 405th troops, a corporal and a PFC, volunteered for a bold mission. The corporal asked just one thing: to help his wife and two children bring his corpse back to his home near Can Tho should he be killed. The PFC, who was a single boy, asked for nothing. The two, a Catholic corporal and a Buddhist PFC, prayed for a minute. Then they stripped to their underpants. Then crawling on the ground, dry grass would make no sound on bare skin. Each man held two M-26 hand grenades in his hands, with safety pins removed, and gripped a carbine bayonet between his teeth. (2)

Tạm dịch:

Cuối cùng, hai người lính thuộc đơn vị 405, một cấp bậc hạ sĩ, một binh nhất, tình nguyện làm nhiệm vụ gan dạ liều linh. Người hạ sĩ chỉ yêu cầu một điều: giúp vợ và hai đứa con anh mang xác anh về Cần Thơ nếu chẳng may anh bị giết. Người lính binh nhất chỉ là một cậu trẻ độc thân, thì không đòi hỏi điều gì. Cả hai, viên hạ sĩ người công giáo, và người binh nhất gốc Phật tử, đều cầu kinh một phút. Rồi họ cởi hết quần áo ra chỉ còn lại quần lót. Đọan họ bò trên đất, trên cỏ khô, gắng không gây tiếng động. Mỗi người tay cầm hai trái lựu đạn M26 đều rút chốt an toàn , miệng thì ngậm lưỡi lê…

****

Nhắc, nói lên sự thật, có phải là “chưa chịu giải ngũ” hay là vì lương tâm của một nhà văn ?

 trungdoithamkich

(Hình chụp trung đội tôi sau đêm đột kích. Thầy trò vui lắm trước ống kính của viên cố vấn MỸ. Viên cố vấn này sau đó đã tử trận.)

Khởi Hành và tôi: Phản chiến phản bội hay…? (bài bốn)

Người lính viết văn.  Chẳng ai bắt hắn phải vừa cầm súng vừa cầm viết. Hắn làm một cách tự nguyện.

Không ai có thể đụng hắn.Không ai có quyền bắt hắn phải nạp bản để đọc tư tưởng của hắn.

Hắn được tự do.

Tự do hoàn toàn.

Ngay cả tự do chết.

Trên thi thể của hắn không có gì cả, trừ bản thảo, xấp giấy trong túi áo trận.

Có thể là bài thơ tình.

Hay cũng có thể là bài thơ về một nỗi ước mơ,  mùa chiêm vàng bát ngát…

Người lính viết văn. Mấy tháng đổ mồ hôi trên thao trường, hắn được thảy ra mặt trận. Quân dội cấp hắn khẩu súng, lựu đạn, dao găm, địa bàn, bản đồ, giao hăn mười mấy người lính để hắn chỉ huy. Nhưng hắn tự giao cho hắn cây viết và xấp giấy.

Hắn tiếp tục viết.

Hắn viết bằng chất liệu từ cuộc đời của hắn. Hắn sống và viết.

Nhiệm vụ của hắn là mỗi hai đêm dẫn con cái đi nằm ở ngoài vòng đai  căn cứ hay được lệnh thực hiện một cuộc làm ăn đêm. Hắn phải lựa chọn địa điểm kịch, địa điểm đóng quân cho thích hợp. Ví dụ một nghĩa địa làng, hay một mô đất mả mồ nổi lên giữa đồng trống. Những bia mộ là những tấm khiên che chở rất hữu hiệu khi đơn vị bị tấn công. NHưng để đổi lại là cảm giác sợ hãi lo âu vì âm khí từ mả mồ bốc lên. Hắn từng nghe những bệnh nan y như phong cùi là hậu quả của âm khí độc địa này. Tuy nhiên, gGiữa hai chọn lựa, hắn chọn sư an toàn. Có nghĩa là  gò huyệt, gò mả….

Hắn đã chịu đựng suốt đêm. Phần lo lính canh ngủ gục, phần lo địch về đặt pháo, phần sợ chiếc máy bay C123 rà rà trên bầu trời, bắn lầm. Có khi trời mưa như thác. Có đêm trời rất trong, sao đầy ngập trên bầu trời. Có khi hắn nghe tiếng nhạc nhảy đầm Lính mà em vọng về từ Bô Tư Lệnh.Hắn chửi thề. Hắn lắng nghe những mẫu âm thoại từ máy PRC 25, mà người lính truyền tin điều chỉnh rất nhỏ. Hắn lại sởn cả tóc gáy khi liên tưởng đến  căn bệnh của Hàn Mặc Tử. Máu thi văn của hắn lại  chảy trong người. Hắn ngồi dậy, trùm hai ba lớp mền, poncho, và bật đèn pin quân đội. Hắn làm bài thơ:

Đêm nằm kích ở Luật Chánh II. 

Dù ngại một lần rồi sẽ ngả
Ta dắt đàn con nhỏ chắt chiu
Về thăm gò mả thăm kênh lạch
Thăm những oan hồn đang hẩm hiu

Ta chẳng buồn đêm nay thiếu gái
Ta chẳng sầu bởi quá bơ vơ
Ta chẳng thèm thêm ly rượu đế
Ta chẳng màng đọc một bài thơ

Dù cũng nhớ đêm nay sinh nhật
Buồn như điên gữa cõi tha ma
Buồn như vạn vì sao cô độc
Buồn xuôi tay nước mắt nhạt nhòa

Ta có áo mưa làm con vợ nhỏ
Có gò cao làm gối, gối đầu
Ta có oanhồn làm bạn hữu
Thương dùm cho ta khỏi cùi phun

Ta có ông bà muôn năm cũ
Đội đất vỗ về giấc ngủ ta
Ông bà xin thương một thằng lính sữa
Trọn đời chỉ biết có trăng hoa

Ôi những đêm dài như địa ngục
Mà hồn ta là bãi tha ma…

Bài thơ sau đó gởi cho Khởi Hành, tờ báo mà hắn tin sẽ đăng nó trọn vẹn. Hắn thừa  biết nếu bài này mà gởi cho Bách Khoa hay Văn, thì khó lòng qua mắt được kiểm duyệt. Lý do, họ sẽ buộc tội hắn là hạ thấp quân lực miền Nam. Người lính miền Nam phải oai hùng, đâu có buồn xuôi tay nước mắt nhạt nhòa như vậy. Người lính miền Nam phải đứng đầu gió và lời thơ phải là lời thép.

Khởi Hành đăng, rồi sau đó, Tổng cục Chiến Tranh Chính Trị chọn bài thơ để đăng vào trong cuốn thơ Đầu Gió, tuyển tập những bài thơ thép, để phát không cho quân nhân. In đến 5000 cuốn.Tổng cục chọn, đáng lẽ hãnh diện mới phải, nhưng tại sao hắn lại xấu hổ.  Bài thơ của hắn uỷ mị yếu đuối như vậy mà lại được xem vào loại thơ thép thì hết chỗ nói.

Cũng như bài thơ Thảo Khấu  của Nguyễn Bác Sơn với mấy câu có vẽ man rợ, đọc lên thấy lợm miệng::

Vì sao ta đến đây hò hét
Học trò bẻ bút tập mang gươm
Tập uống máu người thay uống nước
Múa may theo lịch sử điên cuồng.

cũng được  KH đăng, không bị kiểm duyệt gây khó dễ. Và sau đó cũng được chọn là bài thơ thép trong cuốn Đầu Gió !

Nhân vật người lính của Nguyễn Bắc Sơn quả thật man rợ hết chỗ nói. Hắn cố tự an ủii, đây chỉ la văn chương, là hư tưởng, đây chính là đặc trưng của một nền văn học miền Nam, tự do, rất tư do  và tờ báo Khởi Hành và Tổng Cục CTCT  đã thật sự biết tôn trọng sự tự do ấy của người lính viết văn làm thơ.. Nhưng hắn vẫn thấy lòng bất an. Cả một bộ não trí tuệ tại Tổng Cục  CTCT khi thực hiện thi phẩm phát không này  cho binh sĩ các cấp  nghĩ gì khi định nghĩa thơ thép ?

Untitled-Scanned-01

tho THT

NGUYEN BAC SdHNBS-3

Bài thơ

Ngày Memorial ở Mỹ…

Hôm nay là ngày Memorial Day. Nhà băng đóng cửa. Bưu điện không đưa thư. Trường học trống không…

Nhưng gió Nồm Nam thốc hồn tôi và những hạt mưa trường sơn cắt buốt. Tôi nhớ lại cảnh ba người lính đứng vây quanh bếp lửa giữa đồng không để che gió, cho nồi cơn dã chiến khỏi sống. Tôi nhớ lon guigoz đầy nước mưa thay canh…

Tôi tự hào làm người lính miền Nam không phải vì tôi yêu màu áo. Nhưng tôi cảm thấy ít ra tôi cũng làm tròn trách nhiệm để mà không thẹn với lương tâm mình. Màu áo lính miền nam bị rủa xã, bôi nhọ, bị nhuộm màu đen, nhưng màu áo ây, sẽ mãi mãi tưoi thắm trong tâm hồn tôi. Màu áo pha nhục nhần, cam khổ. Màu áo pha bùn, pha máu pha mồ hôi và cả nước mắt. Màu áo pha mưa lạnh trường sơn, nắng lửa Bình Định, nước sông Côn, bùn Đệ Đức… Màu ấy không xanh, mà xám xệt, mà bị trốc, bị xướt, ngã màu không thể tìm ở bất cứ nơi nào trênquả đất.

Hôm nay là ngày Memorial, có tiếng kèn đồng ai oán cất lên trong tâm hồn tôi… Tôi muốn khóc đây.

 

Ngày Memorial ở Mỹ

Người lính già đứng nghiêm chào tay
Khi tiếng kèn đồng chiêu hồn nức nở
Không biết nơi này, giang sơn nước Mỹ
Có đón những linh hồn tử sĩ miền Nam

Người lính già đứng nghiêm chào tay
Đôi mắt hom hem sau làn kính lão
Ông không thấy gì. trừ một trời giông bão
Và những bãi mồ nghĩa địa tang thương

Người lính già đứng nghiêm chào tay
Ông rán nghĩ về
núi sông giang sơn hồn thiêng tổ quốc

Ông chỉ thấy con tim ông nhức buốt
Trong tiếng kèn đồng
nức nở thê lương

 

 

Mời đại bàng

Mời đại bàng, một trăm phần trăm
Lâu lắm đàn em xin mời một cốc
Ở Mỹ lâu rồi miệng rêu lưỡi mốc
Hôm nay thả dàn cho chúng
được tự do

Qua Mỹ này, tự nhiên ai cũng quan to
Ai cũng áo hoa dù, thiên thần trận mạc
Đàn em chỉ là tên nhà thơ đánh giặc
Áo lính đã vá chùm vá đụp tang thương
Nên khó lòng được vinh dự ngồi chung

Mừng đại bàng một cối chia hai
Uống để mừng hai ta sống sót
Có bạc triệu chưa chắc gì qua Mỹ quốc
Còn đàn em chỉ ở tù, lại được đi mây

Ôi đời vô thường, nhục đó vinh đây
Hôm qua công an gọi mày hôm nay bẩm ngài bẩm cụ
Hôm qua chỉ tay, hô tiền ủng hậu
Hôm nay phận bồi, yes yes sir sir

Ngẩm nghĩ cuối cùng, ai thắng ai thua
Bọn lính chúng mình cũng hơn lính Mỹ
Thân thì nhỏ mà lưng mang hàng bao tời lịch sử
Lịch sử nào cũng nặng cả nghìn cân
Thế mà qua đây, đầu vẫn ngẩng lên
Vẫn tỉnh bơ,
làm thơ tình
xem đời kiến gãi… (1)

____

(1) Câu nói  thường dùng của người lính truyền tin trong đơn vị tác chiến (cấp trung đội)  khi báo cáo về sự thiệt hại của trung đội. Kiến cắn: Bị đạn tử trận, Kiến gải: Bị thương xoàng. Ý nói là coi nhẹ nỗi hiểm nguy.

 

Khi ở chiến trường Tây Nguyên
Những ngày mặt trời lên rất chậm
Ca nước sương hứng trên poncho cả đêm
Nấu bọc cà phê Mỹ
Và điếu thuốc đầu ngày
Và bếp củi rừng
Anh mới hiểu thế nào là niềm vui
của người được sống sót

Em làm sao biết một ngày trôi qua
Mỗi lần thấy vầng dương
Mỗi lần nghe tiếng di chuyển
tiếng gọi nhau
Mỗi lần nghe tiếng xe rồ máy
Sự sống lại thêm một lần hồi sinh
Niềm vui lại thêm một lần rộn ràng

Như khói thuốc đầu ngày sau một đêm nghiền cử
Như hớp cà phê quen
Ca nhôm nhà binh ấm lòng bàn tay
Như chiếc jacket màu cứt ngựa thay vào da thịt tình nhân

Này em ở xa
Con chắc đã biết bò
Em thử bồng con soi bóng mình trên vách
Thử xem con có gọi ba không
Tạ từ

Xin tạ từ những làng mạc quê hương
Những nơi ta qua, những vùng ta đến
Xin tạ từ những ngôi làng ta tái chiếm
Những con đường ta đã giải tỏa hôm qua
Những nhọc nhằn và tủi nhục xót xa
Xin từ tạ để dành cho cát bụi

Chỉ giữ lại trên thân ta, này vết sẹo
Để khi buồn, sờ lại nhớ thời xưa
Dấu vết hôm qua khói lửa mịt mờ
Và kinh hãi,
trời ơi
ta vẫn còn sống sót
Xin từ tạ những mồ hôi và nước mắt
Những đêm ngày nơi địa ngục tha ma
Những xóm làng đã cháy thành tro than
Những bãi chiến trường chất chồng xác chết

Xin từ tạ chú gà còn sống sót
Giữa trưa hè, cất tiếng gáy lẽ loi
Muốn quì lên trên nền đất tả tơi
Và hôn xuống một miền Nam sụt sùi lệ đỏ

Xin từ tạ những tháng ngày gian khổ
Nhớ lúc buồn bày cuộc nhậu dưới trăng
Thầy trò chuyền nhau nắp rượu bi đông
Màu rượu, màu trăng
long lanh cả sao trời chinh chiến
Bóng người lính bên chiến hào đợi sáng

Và bây giờ, anh đứng đấy, không phai
Xin tạ từ anh, người lính thám kích sư đoàn 22
Anh, người đồng đội của tôi, mấy mươi năm về trước
Chiếc chiếu rượu bây giờ thành chiếu trống
Những người xưa giờ đã bỏ đi đâu
Còn lại mình tôi, cách nửa địa cầu
Con ngựa lạc đàn ngậm ngùi đất khách…

 

Vịn vào, niềm kiêu hãnh tội nghiệp
Khi tuổi xế chiều, vạt nắng cũng buồn hiu
Những chiếc lá cũng úa vàng chờ cơn gió rụng
Người lính cũ xa hương mấy mươi năm chưa về cố quận
Đôi lúc cũng buồn làm kẻ không quê
Đôi khi chiều về mệt lả mãi mê
Anh thấy mình như một người vô cùng mất mát
Mất quê hương, và ngày tiếp ngày
mất dần những tế bào xuân sắc
Như những chiếc lá đời mất diệp lục tố nhân sinh

May mà anh còn niềm hãnh diện trong tim
Như vết đạn đã chai lì trên lồng ngực cạn
Để anh có thể vịn vào mà đứng thẳng
và kiêu hãnh trả lời
tôi là
người lính trận miền Nam

 

Hết chiến tranh

Bây giờ chiến tranh đã qua
Trên những triền sơn đã ngập đầy hoa cỏ dại
Con cáo con chồn chắc không còn kinh hãi
Trở về đào ổ đào hang
Và những lối mòn có lẽ những cốt xương
đã bị khuất trong lùm cây bụi cỏ
Tiếng chim rừng đã thay tiếng nổ
và những hố bom đào trở thành di vật chiến tranh
Và có thể chìm vào lãng quên
Chỉ có vết sẹo đóng dấu trên ngực anh
là không quên được

Cuối cùng, chiến tranh rồi cũng bỏ lại đằng sau
Người lính hôm qua bây giờ thành bóng mờ dĩ vãng
Trên mái tóc bạc của anh
là thời gian tàn nhẫn
và trong đôi mắt anh
là những kỷ niệm chập chờn
Đôi khi giật mình sau những mê hôn
Tỉnh dậy thấy mình vẫn còn sống sót
Mắt lại mở chong cùng cõi tối
Kỷ niệm xưa lại lũ lượt đi về
Những vui buồn, ray rức lê thê
Những dấu vết của cuộc hành trình
mãi mê sống chết
Người lính trong anh bây giờ chỉ còn là cái bóng

Không phai mờ như một pho tượng ngàn năm

Như những ngọn đèn hắt hiu của ký ức hoàng hôn
Như niềm hãnh diện hôm qua còn sót lại
Anh đã để lại quê hương anh một phần đời, tuổi trẻ
Tha thiết vô cùng như da thịt tình nhân
Nơi có cốc xây chừng tự thưởng cho mình sau đêm làm ăn
Nơi có đôi mắt cô hàng để quên rồi để nhớ
Cô hàng ơi, đêm qua
trời mưa như thác đổ
Ngồi cả đêm không ngủ
Ngóng cổ quá dài đợi gà gáy đầu thôn
Tha lỗi cho tôi phải đập cửa quán tinh sương
Bởi cả đêm nhớ vô cùng mùi cà phê thuốc lá

Cám ơn cô hàng, rộng lòng mở cửa
Để sáng lạnh nhấp ly xây chừng pha sửa
Hút điếu thuốc đầu ngày
Lòng nghe niềm vui nho nhỏ xôn xao

 

Màu áo lính xưa

Đơn vị chúng tôi thường ngụy trang khi làm ăn đêm
Ngày ngày xuống đồi mồ hôi cứ thấm thêm trên từng sợi vải
Những gian khổ, và những điều không thể nói
Cứ lớp lớp chất chồng theo ngày tháng chiến chinh

Người lính thám kích chúng tôi không có áo giáp che thân
Đầu đội chiếc mũ rừng nhẹ hơn mây
trắng
Chiếc áo chiếc quần nhẹ tênh khét nắng
Cứ mặc hoài nên áo rách tang thương

Mà người tình thì không có
chỉ có gian truân
nên áo không ai vá dùm để mang theo tình yêu em gái

Khi người ta bây giờ oai hùng trong màu hoa dù, hoa vải
Chúng tôi nhớ về chiếc áo cũ màu đen
Dù tả tơi đen đúa nhưng là màu áo chiến trường
Giúp tôi đứng thẳng bằng đôi chân của người lính trận

Đêm xuống đồi

Đêm xuống đồi,
đốt điếu thuốc nửa khuya
Vành nón rừng che ngang vầng trán bạn
Xe mở đèn mắt mèo
Về đâu hỡi người tài xế quân vận
được lệnh chở chúng tôi lên đường

Đêm xuống đồi
Những ánh đèn nhòa nhạt trong sương
Ranh giới hai phần
Anh níu giữ mệt nhòa

Ngày đêm phờ râu trắng mắt

Mười mấy thằng con ngồi trên xe
im lặng
Poncho đã ướt sương đêm
Đánh giặc quen rồi, chết sống cũng quen
Chỉ tiếc chưa về Qui Nhơn
tuột quần các cô nàng ca ve vũ nữ

 

Xin trả lại
Xin trả lại bên trời vầng trăng đỏ máu
Và tiếng dội ầm ầm của đám trực thăng
Và cả một biển rừng lửa bốc xung quanh
Và sườn lũng cháy đen thành than củi
Người lính cũ mắt nhìn trong bóng tối
Nghe văng vẳng bên mình
lời rên rĩ: cứu em !

 

Cũng may

Ở xứ này, buồn thất nghiệp nằm chơi
Không đi đứng cũng thấy đời thiếu thốn
Cũng may giày đã dẫm khắp nẻo đường đất nước
Nên khỏi cần về hôn đất hôn quê

Cũng may trên người đầy vết sẹo đóng si
Nên khỏi cần ai dạy đời về ái quần ái quốc…

 

Thế hệ chúng tôi

Khi trở lại ngồi trong lòng quán tối
Thuốc vàng tay, và vầng trán đăm chiêu
Thế hệ chúng tôi, những đứa đôi mươi
Hồn đã mọc những nụ buồn rất sớm
Khi trở lại, dựa lưng vào vách quán
Để giọt buồn pha đậm tuổi suy tư
Chiếc mũ rừng che nửa mặt âm u
Đôi giày trận bết bê bùn sinh tử
Khi trở lại mang về ngôi sao đỏ
Để làm quà của một kẻ bị thương
Cô hàng ơi, xin cô hãy cảm thông
Một tên lính trở về, từ địa ngục…

 

Cho những người không bao giờ thấy hòa bình
Thì đi về, sẽ không nói năng
Nhưng hàm răng phải cắn bầm bật máu
Những thằng sống chưa vui mừng thoát chết
Nhưng nỗi buồn, những thằng chết, để đây
Đây chiếc poncho, thả xuống cho mày
Mày nằm ngủ, sao lại ngồi như đá
Mày nằm ngủ, không còn gì để nói
Mà nói gì, trời hỡi, tao không nghe
Chỉ tiếng cười đắc ý của sa tăng
Chỉ có một mặt trời chói lòa nham thạch
Nhận diện ai đây, ai cũng cháy đen mày mặt
Ai Thượng ai Kinh ai địch ai ta

Khi không tìm ngọn đồi trọc khô
Làm bãi chiến trường, giết nhau hê hả…

 

 

 

 

 

 

 

 

Đọc Nationalist in the Viet Nam Wars: Memoirs of a Victim Turned Soldier của Nguyễn Công Luận vào nửa khuya, nhớ đến đồng đội mình

Qua Google tôi được biết Amazon.com  có bán một tác phẩm đề cập đến đại đội 405 thám kích mà tôi đã có mặt gần 4 năm,
Đó là tác phẩm
Nationalist in the Viet Nam Wars: Memoirs of a Victim Turned Soldier của Nguyên Công Luận.
download (1)
Tôi đã chọn ấn bản Digital (Kindle edition) để có thể mau mắn tìm lại kỷ niệm về một đơn vị cũ. Xin được cám ơn tác giả, dù tôi biết, ông không phải là một người chỉ huy trực tiếp, mà là chỉ huy cao cấp, nhưng ông đã dành những sự ngưởng phục nhất, trân trọng nhất về những người lính thám kích của đơn vị tôi nói riệng và binh chủng thám kích nói chung trên những trang giấy chữ người..
Một đọan ông đề cập nhiều đến thám kích là đọan ông kể về  hành động gan dạ của 2 người lính thám kích thuộc  đại đội 405 thám kích  (1) trong việc diệt một hầm có 5 tên địch xâm minh.  Dù  ông đã xử dụng nhiều biện pháp như thuyết phục chiêu hồi, bắn M79 dọa dẩm với mục đích là để họ còn được sống…  nhưng đổi lại là địch vẫn ngoan cố, không chịu đầu hàng. Cuối cùng ông ra lệnh phải  diệt hầm. Nhưng vấn đề chính là giải quyết làm sao, tìm cách gì  trong khi hầm thì kiên cố ?, ngụy trang rất khéo, trong khi 5 tay súng dưới hầm chờ đợi sẵn ?.
Với một đơn vị súng ống đầy đủ yểm trợ tối đa thì chỉ cần một quả bom, một quả đạn pháo thì có thể tiêu diệt ngay, tuy nhiên với một đơn vị chỉ trang bị súng ống nhẹ như thám kích, thì rất khó khăn.
Trưốc tình thế như vậy, thì có hai người lính thám kich tình nguyện. Ông viết như sau:
…At last, two of the 405th troops, a corporal and a PFC, volunteered for a bold mission. The corporal asked just one thing: to help his wife and two children bring his corpse back to his home near Can Tho should he be killed. The PFC, who was a single boy, asked for nothing. The two, a Catholic corporal and a Buddhist PFC, prayed for a minute. Then they stripped to their underpants. Then crawling on the ground, dry grass would make no sound on bare skin. Each man held two M-26 hand grenades in his hands, with safety pins removed, and gripped a carbine bayonet between his teeth. (2)
Tạm dịch:
Cuối cùng, hai người lính thuộc đơn vị 405, một cấp bậc hạ sĩ, một binh nhất, tình nguyện làm nhiệm vụ gan dạ liều linh. Người hạ sĩ chỉ yêu cầu một điều: giúp vợ và hai đứa con anh mang xác anh về Cần Thơ nếu chẳng may anh bị giết. Người lính binh nhất chỉ là một cậu trẻ độc thân, thì không đòi hỏi điều gì. Cả hai, viên hạ sĩ người công giáo, và người binh nhất gốc Phật tử, đều cầu kinh một phút. Rồi họ cởi hết quần áo ra chỉ còn lại quần lót. Đọan họ bò trên đất, trên cỏ khô, gắng không gây tiếng động. Mỗi người tay cầm hai trái lựu đạn M26 đều rút chốt an toàn , miệng thì ngậm lưỡi lê…
noi ta
__-
Năm 1966, đại đội 405 thám kích từ Kon tum  di chuyển về Bình Định. Tôi tình nguyện về đơn vị này ngay khi ra trường Thủ Đức. Lý do chỉ lo văn chương nên đậu gần chót nên không còn cách gì hơn là chọn một đơn vị mà ai cũng “rét”. Vậy mà, Trời Phật thương, tôi đã phục vụ ở đấy gần 4 năm, qua hai trào đại đội trưởng. Thời gian quá lâu để biết và quen, từng gương mặt của đồng đội mình.
Nhưng tôi không thể hình dung ra người hạ sĩ và người binh nhất mà tác giả Nguyễn Công Luận đã đề cập trong sách.. Hay là Thành ? Hay la Kho, hay là thượng sĩ Tám, hay là Năm… hay là Bình Lò heo ? Tôi không biết. Nhưng tôi không cần thắc mắc.  Bởi vì tất cả những ngừoi lính ấy, mỗi người đều mang  những huyền thoại, như huyền thọai mà tôi được đọc nửa khuya này, trên một tác phẩm mà tác giả không qũen biết đã viết về  những người lính của đại đội tôi. Xin trân trọng cám ơn tác giả.
_____
(1)  Thám kích không phải  là Mountain combat Intelligence như tác giả dịch mà là “Highland scouts”. Ví dụ đại đội 405 thám kích là ” the 405th highland scout company”.
Mặt khác,  tác giả gọi “the 405th Thám kích Thượng” thật sự không phải người Thượng hầu hết, mà có cả kinh, Nùng lẫn lộn. Khi tôi nhận trung đội, trung đội tôi chỉ có khoảng 6 người Thượng, 3 người Nùng, và khoang 10 người Kinh.
___
(2): Nguyen Công Luan :
Nationalist in the Viet Nam Wars: Memoirs of a Victim Turned Soldier [Kindle Edition], Sách điện tử Amazon.com trang 264
 

Bên kia cầu (truyện )

truyện này lấy chất liệu từ chiến trường Bình Định, đăng trên tuần báo Khởi Hành trươc 1975, viết lại . Trích từ tập truyện Thế Hệ Chiến Tranh xuất bản tại Hoa Kỳ, tái bản 2004 (THT)

 TQBT 54 letter page 74_1

(tranh Đinh Cường dành riêng cho tạp chí TQBT )

Có lẽ đơn vị cực nhất là đơn vị trinh sát hay thám kích biệt lập. Đó là những đơn vị được sư đoàn dùng để tăng phái cho các đơn vị bạn. Chúng tôi thường nói với nhau chúng tôi là những đứa con ghẻ. Họ đưa chúng tôi đi trước. Họ bắt chúng tôi nhử địch. Họ đẩy chúng tôi vào giữa lòng cạm bẫy. Họ tận dụng chúng tôi tối đa. Chúng tôi bơ vơ mấy chục mạng, đội mũ rừng, không giáp sắt che thân. Chúng tôi cứ đến, cặp mắt láo liên, đôi tai nghe ngóng. Đôi giày bộ binh không phải đánh bóng mà mốc trắng, mà hả mõm. Mỗi bước đi mà mỗi bước tai ách. Ngày xưa, cái chết nhẹ như lông hồng bởi vì không có mìn, có bẫy, có chông, có lựu đạn gài. Ngày xưa tướng đánh tướng quân chơi quân. Ngày nay, cái chết thì xem như kiến cắn. Trời ơi, không thể tìm trong kho tàng chữ nghĩa cái ví von kỳ lạ này. Thế mà mấy ngài nhà văn nhà thơ nhà báo, nhà quan, nhà tướng cứ mang ba cái điển tích Tàu ra mà xài. Cái chết nhẹ tựa lông hồng. Mấy chục năm chiến tranh, không đủ để tìm ra một lời ví von hay sao, lại cứ xài đi xài lại ba cái điển tích Trung Hoa. Ôi kiến cắn. Danh từ này chắc không đến từ quan tướng, mà lại xuất phát từ mấy tay lính mang máy PRC25. Kiến cắn. Kiến chích. Kiến nào. Kiến càng. Kiến lửa. Nó bị kiến cắn ngủ thật rồi. Trí ơi, mày học trường nào mà ca dao tục ngữ đầy bụng. Mày vừa hút thuốc, vừa nghe hay báo cáo trong máy truyền tin. Mày bị tao đá đít nhiều lần vì không chịu mang súng, chỉ hai trái lựu đạn hộ thân. Bộ mày tưởng làm lính mang máy PRC25 là tà tà sao. Mày không biết bọn gà chết chuột nhắt luôn luôn tìm mày trước. Bởi mày là linh hồn của đơn vị. Mất mày có nghĩa là mất hết. Không còn liên lạc. Không còn xin yểm trợ. Không còn nghe lệnh lạc. Đại Bàng, Mặt Trời. Sơn Ca Họa Mi Quái Điểu Phi Long. Bắc Bình Sơn Tây Non Nước. Mất mày như tao mất cặp kính 7 độ của tao. Mày là con cưng. Mày còn theo sát tao hơn thằng ô đô tà lọt. Đôi khi mày còn kinh nghiệm hơn tao nữa. Tao suy tôn mày. Bởi mày theo nhiều ông chỉ huy khác, tài giỏi hơn tao, can đảm hơn tao. Mày rút kinh nghiệm từ mấy ổng, để truyền lại tao khi tao cần đến, nhắc tuồng tao khi tao quên. Mày tỉnh bơ khi tao bụng đánh lô tô. Mày cười lộ răng vàng lấy lòng tao nhờ tao viết thư tình tán gái. Mày không bao giờ thắc mắc thao thức suy tư tuổi trẻ tuổi già chiến tranh nội chiến. Mày còn xem được tọa độ, báo cáo mỗi đêm những chỗ làm ăn. Còn tao, tao chỉ hơn mầy cái bằng đại học, cái vỏ sĩ quan. Nhưng mấy con tính vi phân, tích phân, quang học ba động, xác xuất, cơ học, mấy ông Jean Paul Sartre, Albert Camus đâu có áp dụng gì trong cuộc chiến tranh chó má này. Mày cũng như ông Y Đao, ông Muôn, ông Tướng, chẳng cần học trường nào mà cũng biết cách chơi VC, mỗi lần vào mật khu là mỗi lần bọn chuột đồng nhảy lõm bõm, phóng nhào xuống ao xuống hồ, hay chưa kịp mặc quần mà chạy. Trí ơi, linh hồn của trung đội ba. Không ai ca mày thì tao ca mày. Tao vinh danh mày… Tao phải cám ơn mày. Cám ơn ông Tướng. Cám ơn tất cả. Cám ơn mà không thấy xấu hổ. Tao đọc mấy bút ký chiến trường, chỉ nói về quan, chứ ít khi nhắc về lính. Lính là kẻ bị sai, phải sinh ra để mà tuân lệnh cần gì mà nhắc. Mấy ổng tốt nghiệp trường sĩ quan, có học đàng hoàng, có bằng có cấp treo kính, phải phục là phải. Nhưng chắc gì trong một trăm ông, chín mươi chín ông hiểu được cách nghe tiếng súng, để khi nào bò, khi nào chạy, khi nào đứng, khi nào ngồi. Chắc gì mấy ổng biết cách tìm dấu mìn chông mà không cần máy dò máy hửi. Chắc gì mấy ổng học được cái mánh lới qua mặt đại đội trưởng, qua mặt luôn VC khi được lệnh đi tiền đồn. Chính mấy ông lính già, đánh giặc mấy chục năm mới là bậc thầy. Còn các quan trẻ như tao chỉ đáng làm học trò của các ông mà thôi.Bỏ qua đi Tám. Hôm nay tự nhiên nổi cơn độc thoại một mình. Hay là hôm nay, đất trời gây gây như mùa thu trăn trở, để lòng người phải trở trăn. Hay hôm nay, cuộc ra đi vào nơi gió cát lại không thấy gió cát, không nghe tiếng nổ, mà trái lại, mọi sự xãy ra bình an, vô sự, để ta trở về báo cáo địch sợ quá rút dù. Phải hôm nay, màu xanh bát ngát của những cánh đồng mạ non, xen lẫn cùng vài hố bom, hố đạn pháo binh, ta đi giữa đồng, chẳng phải lội nước, lội ruộng, dàn hàng ngang xung phong mà trái lại, ta nghe lòng trổi lên một niềm vui êm ả. Chỉ mong có bấy nhiêu. Vô sự. Một trăm thằng lính thì 99 người đều mong như vậy. Chỉ trừ mấy tay một là lên lon làm tướng, hai là chết, thì gạt sang bên. Nhưng dù không ham lên lon, mấy thằng lính nào lại được bình yên vô sự. Người ta bắt họ phải chứng tỏ họ là những kẻ yêu trai thời loạn, là này thanh niên ơi đứng lên đáp lời sông núi, chết để cho người khác được sống.
Hãnh diện đi chứ khi chết để người khác được sống. Cho lính kiểng, lính ma, lính thầy, lính cậu, cho đám con cháu con ông cháu cha du học nước ngoài được sống. Cho tỉnh trưởng, giám đốc, tổng cục trưởng, bộ trưởng, tổng trưởng, tổng thống sống dai, sống khoẻ để cứu độ dân lành.

Đừng kết tội tôi là tay bất mãn. Tôi đang nói thật. Bởi vì tôi phải có quyền nói. Tôi không dám kết tội ai hay vơ đủa cả nắm. Tôi đang đánh VC mà. Tôi hãnh diện là thanh niên thời loạn mà. Muốn kết tội tôi, xin làm ơn đi đánh giặc như tôi, để hiểu rõ hơn về tâm trạng của những tay lính đánh giặc thật sự. Phải đánh giặc thật sự, chứ đừng đánh giặc bằng mồm. Phải đặt mình ở vị trí của một thằng lính trơn, chứ đừng ở vị trí một tay sĩ quan.
Làm sĩ quan sướng lắm mà. Mấy ngài đóng quân, lính hầu lính hạ, căng võng, trải chăn. Nói gì đến mấy ngài, riêng cá nhân tôi, một tay trung đội trưởng cũng có một tà lọt, ô đô, mang balô, mang lương khô, mang quần áo, và làm kẻ cận vệ, nấu cơm, nấu nước, săn sóc như một kẻ hầu không công.
Đừng chụp mũ tôi tội nghiệp mà.
Bọn nó mà bắt tôi, chắc phải mang tôi ra lăng trì. Người ta nói huynh đệ chi binh, nhưng mày phải đứng xa mặt trời hàng bao cây số. Tiếng nói của mày phải qua hệ thống quân giai. Mày chỉ biết nhắm mắt. Nhắm mắt khi ông đơn vị trưởng lấy gạo bán, lấy xăng bán, mở câu lạc bộ bóc lột tận xương tủy của lính. Nhắm mắt khi xung quanh ông gái đẹp đầy đàn còn mày thui thủi một mình hát lính mà em. Người ta nhân danh mày nhưng người ta có bao giờ cởi chiếc áo bào đắp trên người lính bất hạnh như vua Trần Nhân Tôn đã từng. Phải không?
Tôi nói với ông Tướng, trung đội phó của tôi: ” Ông cho anh em dùng cơm, bố trí tại chỗ. Có lẽ chiều mình rút. ” Ông Tướng không đáp, vác súng chậm rãi bước rảo quanh các tổ trung đội. Tròn, tà lọt của tôi, gặp tôi cười: “Cô giáo làng xinh lắm, ông.” Tôi la lên: “Thế à. Để tao tới xem sao?” Phía đầu trường học, đám lính đứng ngó vào trong lớp. Tiếng đọc bài của đám học trò nhỏ vang lên theo nhịp thước, khiến tôi muốn ngất ngây cùng một niềm vui khó tả. Vâng, ít ra chúng tôi còn một chút gì để mà hãnh diện trong việc cầm súng của mình. Chứ cứ đánh hoài, để cuối cùng chỉ thấy những bãi mồ, những nhà tan cửa nát thì đánh để làm gì. Đừng cho tôi là ái quốc lãng mạng. Tôi sợ cái loại lãng mạng này lắm. Không có lãng mạng ở cuộc chiến tranh này. Những tay mơ tưởng đến cảnh làm người hùng, xin hoán chuyển dùm tôi, để tôi được nhờ. Xin cám ơn trước.

Bây giờ cả không gian đầy những lời học trò đọc bài, nhịp nhàng và tươi vui cùng nhịp thước mà cô giáo gõ đều trên bàn. Hãy vui đi các em. Cho dù, ngày mai, không biết ngôi trường còn vang lên bài hợp tấu thiên thần của các em nữa không. Và cô giáo làng của tôi ơi, chiếc áo vàng màu hoa quì nổi bật giữa một lớp học quê như một bông hoa đồng nội. Và tiếng nói của cô thật trong trẻo như tiếng chim mẹ nổi lên giữa những tiếng ríu rít của các chim con. Cô biết không, tôi cũng có một người yêu là cô giáo như cô. Nhưng nàng thì vô tâm tàn nhẫn. Nàng bắt tôi đội mưa dang nắng. Nàng bắt tôi uống rượu say mèm, hoang đàng phóng đãng. Cái lý do chính là nàng sợ làm cô phụ. Trời ơi, ai cũng sợ thì ai đi đánh giặc hở cô. Ai cũng không dám làm người tình không chân dung thì lũ chúng tôi trở thành những kẻ ế vợ hết. May mà có em đời còn dễ thương. Thôi thì cứ tưởng tượng để đời còn bông còn hoa, dù là hương thừa phấn thải…
Tôi nhìn vào lớp học. Nàng chừng như bắt gặp đôi mắt của tôi, nàng cúi đầu xuống. Kìa, nàng bặm môi, nàng cười, hay nàng làm dáng. Nàng lại gõ thuớc trên bàn, bắt học trò cùng đọc theo nàng một bài học thuộc lòng.
Có đôi cậu tinh nghịch, thúc cùi chỏ vào bạn bên cạnh mà miệng thì gào hét. Vâng, các em cứ vui đi nhé, cứ sống cho trọn vẹn tuổi học trò của các em đi nhé. Nắng đã lớn. Nhưng trời gây gây lạnh. Cánh đồng vàng bát ngát. Bên kia cầu hiện giữa màu xanh của dừa, tre là nóc giáo đường. Không có dấu hiệu gì để chứng tỏ là địch có mặt như tin tình báo đã cho biết. Trên đường đê vẫn thấy vài người đàn bà đội thúng mang gánh trở về. Không biết phòng nhì sư đoàn lấy tin tức ở đâu. Thôi, chẳng cần thắc mắc, bận tâm. Miễn là vô sự, càng tốt. Bình an được ngày nào hay ngày nấy, phải không, Ba Cận Thị ?
Bây giờ, chúng tôi lại bắt đầu zulu. Lệnh go, để chúng tôi có thể trở về nhà sớm. Trung đội một đi đầu, và trung đội tôi bọc chót. Không có gì đáng lo ngại trong vùng hành quân lục soát. Bình an được một ngày thì mừng rồi. Xem chuyến hành quân này mấy ngài ở Sư đoàn chấm lộn. Học trò đọc bài ê a. Dân làng đi chợ. Những cuộn khói bốc lên từ nhà dân. Yên tĩnh như một giấc mơ. Tiếng cười nói tiếp tục khuấy động cả một vùng. Thằng Hà thấy cô gái quê gánh thúng chuối xuất hiện ở trên con đường làng thì sa ngay vào tán tỉnh. Giọng hắn ngọt ngào: “Em mua chuối về cúng hả? ”
Cô gái không đáp, lấy nón che gương mặt trắng bầu bĩnh. Giọng Hà vẫn tiếp tục:
“Ngày nay rằm, em có ăn chay không?”
“Cái ông này vô duyên ” Cô gái chợt nói. Cả bọn lính cười rộ.
Một đứa la lên:
“Nó có vợ ba con rồi, em ơi”
Một giọng khác phụ vô:
“Đừng tin nó. Tin anh đây em. Anh không có vợ đây em”
Thằng Hà lại hỏi:
“Anh ăn thịt chó, chẳng hay ăn chay được không em?”
Cô gái bước đi vội vàng. Binh Hà vội chạy theo:
“Cho anh về nhà để anh cúng dùm cho”
“Cái ông này vô duyên”
Cô gái tránh được đám lính, vừa đi vừa chạy. Hai chiếc thúng lắc lư theo bước chân. Đám lính nhìn theo cười rộn rã, nhìn theo bóng cô khuất sau đám tre trước cổng làng, thì bỗng nhiên một tràng đạn nổi lên ở phía bên kia cầu. Tôi nghe rất rõ là tiếng rít của đạn cắt vào gió. Như một phản ứng tự nhiên, tôi hét lớn, bố trí, coi chừng địch phục kích. Không cần tôi hét, đám lính đã nhào xuống bờ mô cạnh con kinh tự lúc nào. Trí vừa nghe máy vừa chạy theo tôi. Hắn nói không ra hơi: Mày nói bị kiến cắn. Ngủ rồi à. Tôi hỏi nó: Đứa nào đó. Trí lắc đầu: Trung Một bị mất hai con rồi. Em hỏi đứa nào nó không nói. Tôi lom khom bò theo con mương. Đôi giày tôi lún trong bùn, cực khổ lắm mới rút lên được. Cổ họng tôi khô. Bầu trời vẫn ui ui. Phía bên kia cầu, nóc giáo đường vẫn hiện ra rất rõ. Không thấy cô gái gánh đôi thúng chuối nữa. Chẳng biết cô ta là địch hay là dân. Một thằng lính mới bổ sung đang ngồi một mình, run rẩy. Tôi đá vào đít nó: Đ M, tổ mày đâu mà mày ngồi đây. Ông Tướng đang nhìn tôi. Tôi nghe văng vẳng tiếng nói: Thằng Tám, thằng Tửu. Trí vẫn chạy đằng sau tôi. Tôi thở hổn hển. Không biết bên kia cầu địch đông hay ít, hay chỉ là vài tên du kích lẻ tẻ. Mồ hôi đã toát ri rỉ trên trán. Tôi vẫn chưa biết mình sẽ làm gì. Mọi sự đã diễn ra đến độ sững sờ. Mới đây, tiếng đọc bài rộn ràng, chiếc áo vàng hoa quì nổi bật giữa lớp quê, tiếng thước gõ nhịp vào bàn, và cả bọn chúng tôi đang chờ đợi lệnh rút quân, thì bây giờ bỗng nhiên hai đứa ngã lăn ra chết. Tôi đang chờ đợi. Cả bọn chờ đợi. Tiếng gọi trực thăng tải thương hối hả trong ống liên hợp. Lão thiếu tá từ Bộ chỉ huy hành quân đang la lối sao để cho lính chết. Sao không chịu xung phong. Tôi ra lệnh, phải xung kích bắt cho được thằng bắn, nghe rõ chưa trả lời. Giọng Mận van nài. Xin thẩm quyền gọi trực thăng. Hai đứa con tôi ngủ thật rồi. Phía đầu miếu, viên sĩ quan đề lô bắt đầu gọi pháo binh bắn vào phía làng bên kia cầu. Giọng hắn lớn: Bắc Bình Rạch Giá… Quả điều chỉnh…Đúng rồi… Cho một tràng hai mươi quả. Những tràng đạn vang rền, ầm ầm rung chuyển mặt đất. Những đốm lửa toé lên. Tiếng đạn cắt rít trong không gian. Chúng tôi nép người vào bờ mương nhìn cả khu xóm đang bốc lửa. Tôi không nghĩ gì cả. Lại thêm một vùng đất không được may mắn trên đất nước nhiễu nhương này. Bởi vì nó là nơi xuất phát cho tai họa. Chúng tôi không cần biết những người dân kia là VC hay là thường dân vô tội. Chúng tôi chẳng cần bận tâm đến những cơ nghiệp mà người dân đã đổ bao nhiêu mồ hôi nước mắt. Chúng tôi không thể nói với họ nếu không phải là VC thì chạy sang chúng tôi. Không thể mang trái tim bồ tát mà ra trận. Chúng tôi phải trả thù. Trả thù. Vâng. Hai mươi quả. Tiếp tục thêm hai mươi quả. Cứ rót xuống. Đ M, lũ chuột nhắt. Lũ chuột chỉ biết núp trong trường học, nhà thờ, lẫn lộn trong dân. Trận giặc gì mà chó đẻ, có một không hai trên quả địa cầu này. Một mặt chúng chơi trận địa chiến từ binh đoàn này sang binh đoàn khác. Mặt khác chúng hiện hồn như ma quỉ, chuyên chơi cái trò đánh lén đâm sau lưng. Chúng tạo ra trận địa để nhử chúng tôi vào. Chúng áp đặt sẵn thế trận để chào chúng tôi đến. Trời ạ. Đánh trận kiểu này chỉ có tàn bạo kiểu Mãnh Hổ Đại Hàn hay phải có bom đạn nguyên tử mới đánh nổi, chứ cái kiểu lùng và diệt địch, chắc còn lâu. Địch ở đâu mà lùng. Chúng là ma hiện hồn. Chỉ có quỉ mới trị chúng được. Phải vậy không?
Trí vẫn tiếp tục báo cáo và nhận lệnh bên tôi. Hắn nói Quái Điểu(danh hiệu của thiếu úy Mận) nói thiếu úy chuẩn bị xung phong qua cầu. Tôi chụp ống liên hợp nói: Hôm nay thằng Một trực, tại sao tôi phải đi đầu. “Nó bị hai con. Nó mất hết bình tĩnh rồi, nghe rõ trả lời” Tôi nói nghe rõ 5 trên 5, rồi trao ống liên hợp lại cho Trí. Tôi chửi thề, nhưng tôi không thể cãi lại lệnh. Tôi kêu ông Tướng và truyền lại lệnh. Ông Tướng thắc mắc. Hôm nay trung đội một trực mà thiếu úy. Tôi nói: Đây là lệnh, ông Tướng. Ông nhích miệng cười cay đắng. Vâng, tôi biết trong đầu óc ông đang nghĩ gì. Nhưng tôi không biết làm gì hơn. Kỷ luật là sức mạnh mà. Cãi lệnh là vào quân lao và ra toà án binh như chơi. .
Xác hai người lính đang nằm úp xuống ruộng, hai tay trải dài. Trí truyền tin nói đàng sau tôi: “Ông thầy, dám bọn nó đông lắm.” “Sao mày biết?” “Bởi vì không phải một thằng bắn, mà ít nhất trên hai thằng bắn một lần. Ông thầy không nghe cả một loạt tiếng nổ sao?” “Phải. Mày nói đúng.”
Trí, mày là thầy tao rồi. Tao cần phải học ở mày nhiều điều khác nữa. Rồi có ngày tao về nhà viết sách, tao sẽ vinh danh mày, thằng hạ sĩ truyền tin của trung đội. Thằng có chiếc răng vàng, sinh ra để mang máy mà chạy theo quan. Mày cứ yên tâm, hết hành quân tao cho mày phép miệng, rán đừng để quân cảnh thộp cổ mắc công tao phải ăn nói với đại đội trưởng.
Bây giờ nó nói:
Quái điểu nói Phi Long chuẩn bị xung phong sau khi gà cồ hết gáy.
Lại lệnh. Tiếng đạn pháo binh hú như ma đói lẫn cùng tiếng đạn M16 kêu dòn dã. Cứ mỗi lần đạn rót xuống đất là mỗi lần cả người chúng tôi lại dội lên. Giọng người sĩ quan đề lô tiếp tục: Được rồi, cho thêm nữa đi. Phía trung đội hai báo cáo bắt một tên đàn ông vừa đi qua cầu trứơc khi súng nổ. Tự nhiên lại nhớ đến cô gái gánh đôi thúng chuối. Không biết nàng có tránh được những trận mưa pháo binh hay không.
Tôi nói với ông Tướng chuẩn bị xung phong. Đàng sau tôi, lũ học trò đang nằm bẹp cạnh tường hay dưới những hố đất quanh trường. Tôi không thấy cô giáo ở đâu. Có thể cô đang nằm giữa lũ học trò của cô dưới gầm bàn cũng nên. Trời ơi, mới đó, cách chừng 15 phút, tôi đang mơ cùng màu áo hoa quì và những đôi mắt nai ngoan, bây giờ, màu áo hoa quì đang run rẩy cùng bầy vịt con vô tội. Chiến tranh. Người ta đổ thừa cho chiến tranh. Nhưng ai gây nên chiến tranh. Ai là thủ phạm. Bỗng ước ao một phép lạ, đằng vân túm cổ mấy tên đồ tể, hay nhốt mấy ngài lãnh tụ vào chung một phòng, để các ngài tha hồ đánh đấm, cho dân đỡ khổ.

Xác hai người tử trận được mang lên trực thăng. Người lính nào đó đã khóc. Cả bọn không ai bảo ai bỏ súng xuống. Hai diều hâu đã rời đàn. Người ta nói là họ sống mãi trong lòng dân tộc, tổ quốc, đồng bào. Những danh từ ấy xin dành cho mấy ngài lãnh tụ, hay guồng máy tâm lý chiến. Chuyện ấy còn về hỏi em. Em đá anh như bò đá. Em sợ anh như sợ cô hồn du đảng. Cả cha mẹ em nữa. Cứ tìm hoài, ước ao hoài rễ là bác sĩ kỹ sư luật sư giám đốc bằng cấp treo đầy nhà. Nhưng hai thằng Tám Tửu này chắc chắn phải sống trong tim óc chúng tôi. Bởi chúng tôi có bao nhiêu kỷ niệm. Bởi chúng là chúng tôi. Và chúng tôi là chúng. Chúng tôi đã nhường nhau để chết. Không than thở. Không kèn trống. Không mặc niệm chiêu hồn. Chỉ là hai chiếc poncho mà tay phụ phi công vất xuống, và chúng tôi mang hai xác đặt vào trong rồi kéo dây kéo. Nhưng không phải khi trực thăng cất cánh là hết. Người đi trước cảm thấy thiếu vắng một cái gì. Kẻ đi sau như bị đánh mất một người đi trước. Còn nữa. Chiếc ba lô chưa kịp mang về cho vợ vẫn còn để lại cho thằng còn sống. Chúng tôi cùng cúi đầu. Một phút, từ biệt hai người đồng đội. Chong chóng trực thăng quạt mạnh, cuốn lốc bụi mù, và hai chiếc poncho được hai người lính trung đội khiêng lên tàu.
Trời vẫn ui ui. Rã rời. Khẩu súng đâm nặng. Trong máy giọng lão thiếu tá vẫn chát chúa. Nhưng chẳng một ai bận tâm. Trung Một lại được lệnh yểm trợ cho trung đội tôi. Đạn vẫn tiếp tục nã qua bên kia cầu. Vào những nơi khả nghi. Và trước mắt những cuộn khói bốc lên từ những ngôi nhà bị cháy. Phía sau, cả ngôi trường như một ngôi nhà mồ. Tôi hét: Bắn hết hoả lực. Trung sĩ Muôn, gốc người Thái Mèo, tiếp tục rót M79 qua xóm. Hàng chục nòng súng thi nhau nhả đạn. Ông Tướng bỗng vụt đứng dậy, khoác tay ra lệnh. Trông ông chẳng khác một dũng tướng. Ông hét: Tổ Một đầu tiên. Chạy mau lên. Binh Hiện nhổm người dậy, vừa bắn M16 vừa chạy. Yên ổn. Hắn qua cầu, nhào xuống bờ ruộng. Sau đó lần lượt những người lính chạy tiếp theo như cơn lốc, giữa muôn ngàn tiếng nổ của M16, M79, và tiếng hét xung phong. Chúng tôi cứ vừa bắn vừa hét, vừa chạy vào ấp. Thuốc súng khét lẹt, tiếng nổ làm tôi say cuồng. Tôi cũng hô xung phong như những người lính của tôi. Tôi như một tên điên khùng, mắt muốn nổ tròng, cổ họng khan vì gào quá lớn.

oOo

Thằng Nha lôi cổ một ông lão từ dưới phản lên. Hắn chỉa nòng súng vào ngực ông lão, rồi gằn giọng:
“Ông nói cho tôi biết bọn nó ở đâu hả?”
Ông lão chấp hai tay vái:
“Bẩm các thầy, con thật tình không biết”
Tiếng của một đứa con nít khóc ré lên. Chúng tôi bắt đám dân ra ngồi ngoài sân nhà để hỏi cung. Đám người gồm ông già, bà cả, những đứa con gái, một bầy con nít và thêm một chú tiểu. Chú tiểu chắp tay:
“A Di Đà Phật. Tôi vô tội”
Tròn hét lên:
“Không A Di Đà Phật gì hết. Chú có biết là hai người bạn của tôi bị giết bởi những viên đạn từ nơi này bắn ra không. Chú có chỉ không? ”
Nó giả vờ lên đạn lách cách.
“A Di Đà Phật. Bần tăng không biết”
Tiếng súng lại nổ. Những người lính đã bắn xối xả lên nóc nhà, vào các ụ rơm, hoặc các bờ bụi quanh nhà. Còn tôi, không cầm được cơn phẫn nộ, hét:
“Đồng bào chỉ không. Bọn tôi bị chết cũng vì bọn nó. Bọn nó ở đây, núp ở đây để bắn bọn tôi, đồng bào biết không ?”
Và tôi chụp đầu một thằng bé, rút dao găm kê sát vào cổ nó:
“Mày chỉ không. Nẩu ở đâu hở?”
Thằng bé khóc ròng. Nó la tức tưởi:
“Con không biết. Con không biết”
“Không biết. Không biết hả? ” Tôi dằn đầu thằng bé xuống rồi tát mạnh vào má nó. Nó khóc thét lên. Những người đàn bà đang quì dưới chân tôi, lạy tôi.
“Bẩm quan, bẩm trung sĩ (?!), tha cho chúng con, chúng con vô tội”
Tôi bàng hoàng nhìn họ. Tôi bất lực. Tôi hụt hẩng. Xung phong bắt thằng bắn. Xin các ngài về đây để mà bắt VC. Làm sao tôi có thể biết tận trong tim đen của đám dân này. Làm sao tôi có thể biết ban đêm họ làm gì, và những cái bầu của đám đàn bà kia là của ai. Trường lính không dạy tôi về bài học khảo cung. Việc này chỉ dành cho công an, mật vụ. Nghề của chúng tôi là bắn, là đâm, là ném lựu đạn, là xung phong vào mục tiêu, là lục soát, tiếp viện, đột kích, nhảy diều hâu. Nghề của chúng tôi không phải điều tra thẩm vấn. Trời ơi. Tôi là gì, mà những bà lão, mấy con mụ đàn bà lại lạy tôi như lạy Chúa, lạy Phật. Còn thằng nhỏ, nó khóc tức tưởi, hai tay ôm đầu. Tại sao tôi lại tát tai nó chứ. Tại sao tôi không áp dụng bài học quân dân như cá nước. Cá nước. Chính nơi này là chỗ phát ra tiếng nổ, làm hai người đồng đội của tôi hy sinh. Như vậy mà cá với nước à. Tám, Tửu, hai đứa có linh thiêng thì cho bọn tao biết thằng nào cầm súng bắn mày. Tao bắt tao sẽ trả thù cho bọn mày. Chứ tao chịu thua rồi. Tao đầu hàng rồi.
Tôi bỏ đám dân bước ra đàng sau vườn. Mùi khét lẹt của thuốc súng vướng vít trong thinh không. Một đám người nữa ở đâu đó xuất hiện. Và bốn phía dân mỗi lúc một đông, hiện lên từ những ngôi nhà đổ nát, cháy ngọn. Con nít, bà lão ông lão, đàn bà con gái. Chỉ thấy một người đàn ông cụt giò. Hai con cưởng sổ lồng quanh quẩn bên hiên nhà. Một thằng nhảy tới chụp. Có tiếng gà kêu oác oác. Tôi hỏi như khóc: Có đồng bào nào bị lạc đạn không? Họ nhìn nhau thăm hỏi. Không. Tôi thấy lòng mình nửa buồn nửa vui. Tôi nói lớn: Đồng bào tất cả ra gò mả kia. Để ở đây bọn tôi lục soát.
Nhưng tôi đã quên lững cô gái quê gánh hai thúng chuối. Đến khi thấy thằng Hà tôi mới sực nhớ ra. Tôi cố rảo mắt nhìn đám dân. Không thấy cô nàng ở đâu. Hay cô ta là kẻ thù của tôi. Hay cô ta đã bị banh xác vì những trận mưa pháo thảm khốc kinh hoàng trên đường trở lại nhà?
Lòng tôi bây giờ ảm đạm như bầu trời mùa đông. Phải chi hai bên đánh nhau tơi bời, để một bên thắng, một bên thua, phân minh, rõ rệt. Nhưng ở đây chỉ là nước mắt, khi những người đáng tuổi nội ngoại hay mẹ cha tôi lại lạy tôi như mưa bấc. Thắng gì khi hai đứa con của đơn vị đã bị giết một cách vô lý mà chúng tôi vẫn không thể trả thù. Muốn trút cơn phẫn nộ lên đầu đám dân, muốn đốt hết nhà, đốt hết kho, muốn để lính bắt hết gà, hết vịt để trả thù, nhưng lương tâm không ổn. Trời ơi, trận chiến gì mà kỳ cục vậy. Dù có đại danh tướng như Napoleon cũng phải bó tay mà thôi.

Cuối cùng chúng tôi được lệnh rút quân. Chúng tôi trở lại cầu. Chúng tôi trở lại nơi hai thằng con bị kiến cắn. Mấy đứa con của trung đội Một bỗng nhiên chỉa súng lên trời bắn chỉ thiên loạn xạ. Không thể trách họ được. Họ tức giận điên cuồng bởi vì họ không thể trả thù cho bạn họ. Và họ chỉ biết trút hết nỗi phẫn uất này lên trời. Chỉ tội nghiệp đám dân lại một phen chạy tìm nơi trú ẩn.

ooo

Lệnh để lại một đứa con làm ăn đêm trên đường rút quân. Trung đội tôi lại được chỉ định. Tôi không thể cãi lệnh, nhưng tôi cũng không biết giải thích làm sao cho ông Tướng và những người lính thuộc quyền. Nhất là đối với những người lính gốc thiểu số. Họ là những người lính tuân hành kỷ luật hơn bất cứ một ai. Họ tuân lệnh tuyệt đối. Họ không bao giờ bê trể trong việc canh gác như đám lính Kinh. Họ chất phác và đầy tin cậy. Nhưng họ cũng cứng đầu hơn ai khi họ nghĩ rằng những lệnh lạc ban ra là không đúng. Mỗi năm, nếu không cho họ phép, họ vẫn tự ký phép để trở về cùng buôn bản của họ. Bởi vậy kỷ luật phải căn cứ trên sự công bằng. Trung đội trực phải đi đầu hay làm những nhiệm vụ đặc biệt. Tổ tiền thám phải đi trước. Ngay cả kích gác cũng phải phân minh rõ ràng. Hôm nay gác ca đầu, hôm sau gác ca tiếp. Kẻ bị kỷ luật, bỏ kích gác, phải xách lựu đạn đi nằm một mình xa chỗ kích cả trăm thước. Chính sự công bằng mới khiến lính tráng tuân hành kỷ luật. Bởi vì họ hiểu là người khác cũng như họ, cực khổ như họ. Họ không bao giờ than thở, bởi vì họ đã hiểu được bổn phận của họ. Họ để ngoài tai những mỹ từ yêu nước anh hùng trai chiến sĩ thanh niên thời loạn lạc. Trừ những người những người lính được Sư đoàn tuyển chọn về từ khắp các trung đoàn, một phần lớn là lính nằm trong quân lao hay những tay anh chị hay bị bắt đi quân dịch. Một tập thể hổn tạp như vậy, nếu không có sự công bằng thì chắc chắn khó chỉ huy. May mà tôi có ông Tướng. Ông cắt gác bằng cuốn sổ tay và một đoạn viết chì mòn lẵn luôn luôn mang theo bên mình. Chữ viết ông nguệch ngoạc như em bé mới tập đồ. Nhưng ông ra lệnh thì lính tráng không ai dám cãi. Bởi việc làm của ông phân minh.

Lần này tôi đổ thừa cho thiếu úy Mận: “ổng nói thằng Một bị mất hai đứa con”
“Như vậy trung đội Hai trực chứ không phải trung đội mình, thiếu uý”
“Vâng. Tôi hiểu. Nhưng đây là lệnh. Mình không thể cãi lại trung sĩ”
“Bọn nó than phiền”
Ông muốn nói đến đám lính trung đội. Tôi không biết phải nói với ông làm sao.
Lúc trời nhá nhem là chúng tôi nhào xuống con mương để ẩn mình. Cái chiến thuật nghi binh thời nào cũng đúng. Cứ để cho địch thấy mình rút đàng hoàng, rồi đợi đến nhá nhem hay tối hẳn, cho quân âm thầm trở lại vùng hành quân. Tôi thì thào cùng ông Tướng: Nói với anh em, tuyệt đối cấm hút thuốc. Trí nói không ra hơi, xin im lặng vô tuyến, sẽ báo cáo địa điểm phục kích sau. Máy sôi rồi tắt. Tắt rồi sôi. Một cơn gió lạ thổi qua và ai đó nói tao cá đêm nay trời mưa. Con mương nước xấp xỉ tới mắc cá và đôi giày tôi lại một phen ngâm nước. Có ai hiểu cái khốn khổ phải mang đôi tất ướt rồi khô, khô rồi ướt không. Có ai thấm thía được mùi thúi từ những đôi tất lâu ngày không thay đổi không? Cả bọn đứng dưới mương chờ đợi. Tôi thì cùng ông Tướng đi tìm địa điểm phục kích. Tôi lựa một gò mả giữa đồng. Ông Tướng dường như không vui với quyết định của tôi. Tôi đã quá quen với những gì ông muốn. Một nơi tương đối sạch sẽ, có thể là hiên nhà dân, có thể là khu miếu cổ, hay một ngôi nhà hoang. Ông muốn lính vô sự và bớt khổ cực. Còn tôi, tôi làm đúng theo sách vở. Tôi bất kể mả mới mả cũ, hay cái cảnh lính phải chịu đựng dưới trời mưa như thác. Với tôi, gò mả với những bia, thành bằng xi măng là những nơi phòng thủ và quan sát lý tưởng nhất. Nhất là tránh được đôi mắt đôi tai của đám dân nằm vùng.

Đêm nay cũng vậy. Khi trời tối hẳn, trung đội bắt đầu băng đồng tiến về gò mả. Lạnh. Trời lạnh rồi. Em yêu dấu. Em của đành đoạn, của vô tâm, muốn quên mà vẫn nhớ. Ai cho ta một giọt lệ để ta còn nếm được hạnh phúc bên cạnh nỗi cơ cực lầm than này. Và đêm. Cầu đêm nay bình an vô sự để ta còn về phố phá phách tiêu pha cho khỏi uổng phí đời trai. Một toán được phái đi nằm xa, còn lại ba tổ nằm rải quanh khu gò. Tròn trải poncho trên lớp đất thịt. Đất lồi lỏm. Cởi đôi giày, tháo tất, ngồi bên máy liên lạc về đại đội. Lấy khăn lau kính. Rồi áp chiếc khăn mà Quỳnh đã tặng vào môi. Chiếc khăn màu lam không thêu không thùa, trống trải như tấm lòng vô tâm của em.

oOo
Nửa đêm thì trời nổi cơn mưa. Đầu tiên là những trận sấm vang rền và những lằn chớp thi nhau cắt cả một bầu trời đen tối. Ông Tướng bước tới gọi: Thiếu úy, mình nên di chuyển vào trong xóm, tránh mưa. Tôi nói: “Được, trung sĩ cho lệnh tập trung rồi mình rút về trường học. Nhớ đừng làm ồn ào. Cho một toán đi trước để thám thính”.

Những chuyện gặp mưa bão như thế này, chúng tôi đã quá quen thuộc. Thường lúc này là lúc chúng tôi có những cuộc làm ăn tốt nhất. Bởi vì địch không bao giờ tin giữa đêm mưa gió nộ cuồng, không ai lại ngu si nằm ngoài đồng không heo hút cả đêm. Bởi thế, mấy chàng mấy nàng du kích, liên lạc viên, hay kinh tài thỉnh thoảng lại rơi vào ổ của chúng tôi. Và đám lính thi nhau chạy đến lục soát lấy những bó tiền hay những gói thuốc tây làm của riêng.
Nhưng lần này, tôi không muốn bắt trung đội phải cực khổ thêm nữa. Chiến tranh còn dài mà. Không phải một đêm là hết. Và địch thì quá nhiều, quá nhiều, không phải chỉ một đêm là thanh toán xong. Và giờ này người ta đang say sưa trong giấc ngủ. Và tôi cũng cần như họ. Tôi đã quá mệt. Mệt quá rồi. Tôi cần mấy tiếng đồng hồ còn lại để ngày mai tiếp tục làm nhiệm vụ thiêng liêng mà lãnh tụ hai miền cứ hô hào suốt mấy chục năm chiến tranh.

Chi Bo Ru

Lời chủ blog: Đây là  hồi ký về một cuộc hành quân mà đơn vị tham chiến là hai đại đội thám kích mà tác giả là nhà văn Hoa Kỳ Charles Schwiderski. Ông  nguyên là cựu cố vấn của binh chủng thám kích tại Kontum.  Hồi ký  nói lên vai trò của thám kích ở chiến trường miền núi. Qua đó, thám kích được xữ dụng  vào việc săn địch, nhử địch, đột kích mật khu, lấy tin tình báo. Vai trò cực  kỳ nguy hiểm như lời mô tả  sau đây của  một vị trường phòng nhì thuộc sư đoàn 22 BB, – phòng điều hành trực tiếp  đơn vị thám kích :

Mặc dù Đại Đội Thám Kích không có trong Bảng Cấp Số của Sư Đoàn, nhưng do tính chất cuả nhiệm vụ khi thành lập -vì nhu cầu chiến trường-  nên tính mệnh của mọi cấp trong ĐĐ/TK như “chỉ mành treo chuông” mỗi một khi được sử dụng. Ai vào thám kích mà ra khỏi được, không chết, ít nhất cũng mang theo vài chiếc thẹo trên mình.  (trích từ Định Mệnh của Văn Nguyên Dưỡng – Tạp chí TQBT số 46 chủ đề nhả văn Doãn Dân).

Chúng tôi xin đăng lại để cống hiến quí bạn một bài bút ký chiến trường hiếm hoi.  Hiếm hoi vì có lẽ đây là lần đầu, có một người Mỹ viết về một trận đánh khốc liệt ít ai nghe đến  mà không phải  do  chính đơn vị Mỹ tham chiến như hầu hết những tác giả Mỹ khác. Tác giả  đã viết  với tất cả trái tìm mình, như  thể ông ta đã để lại  ở  đấy một phần dời  yêu dấu nhất và cũng như  tự hào nhất  như chính chúng tôi  đã để lại cho đại đội 405 thám kích /SĐ 22 BB của chúng tôi suốt gần 4 năm. (THT)

Chi Bo Ru 

Charles Schwiderski

Hà Kỳ Lam chuyển ngữ

Lời người dịch: Trong chiến tranh Việt Nam trước đây, thế giới đã từng nghe danh những chiến trường như Khe Sanh, Plei Me, Ðức Cơ, Ðồng Xoài, Bình Giã v.v. Nhưng có những trận đánh không tên và mức độ khốc liệt ít ai biết đến. Chi Ro Bu là một trận chiến trên Cao Nguyên Trung Phần Việt Nam, tuy ở qui mô nhỏ, nhưng độ khốc liệt của nó đã khiến cho một cố vấn Mỹ trong cuộc mỗi lần hồi tưởng lại phải sụt sùi rơi lệ. Ðược phép của tác giả thiên hồi ký này, Charles Schwiderski, người dịch xin hân hạnh chuyển ngữ gửi đến quí độc giả. HKL.

Giới thiệu tác giả:
Tác giả thuộc Toán Cố Vấn MACV 24 , nhiệm kỳ 1967-1968.Nguyên cố vấn cho Thám Kích Cao Nguyên, Biệt Khu 24 QLVNCH, Kontum

Chi Ro Bu- Hai đại đội thám kích Cao Nguyên của Biệt Khu 24, QLVNCH, đại đội 403 và đại đội 406, trong đó có tôi và một viên cố vấn nữa tháp tùng, nhận lệnh lùng tìm tung tích trung đoàn 24 chính qui Bắc Việt trong vùng rừng núi trùng điệp Chi Ro Bu.Vùng núi Chi Ro Bu tọa lạc ở phía bắc tỉnh Pleiku, trong vùng giáp ranh với tỉnh Kontum, và nằm về phía đông quốc lộ 14 chạy từ Pleiku đến Kontum và tiếp tục về hướng Dak To.

Hầu hết lính thám kích là người Thượng, trong khi sĩ quan là người Kinh. Lực lượng thám kích là những đơn vị trinh sát chỉ trang bị nhẹ với súng trường M16, lựu đạn, súng phóng lựu M79, và vài vũ khí chống tăng nhẹ M72.

Sáng sớm ngày 19-8 chúng tôi lên xe rời hậu cứ Thám Kích tại thị xã Kontum trực chỉ một địa điểm trên QL 14, từ đó chúng tôi xuống xe biến vào núi. Hai đại đội thám kích được chỉ định chiếm hai mục tiêu khác nhau, tiến quân theo hai trục riêng rẽ nhưng song song với nhau. Ý niệm điều quân là, nếu đại đội nầy bị lâm nguy thì đại đội kia có thể tiếp cứu. Hai chúng tôi được chỉ định đi với đại đội 406. Tôi cảm thấy biết ơn về sự điều động đó, bởi vì vị đại đội trưởng của 406 là một anh chàng ba-gai nhưng là một sĩ quan xuất sắc.

Có tin cho hay Trung Ðoàn 24 chính qui Bắc Việt dự định tấn công thị xã Kontum. Các đơn vị QLVNCH đang nỗ lực lùng tìm Trung Ðoàn 24 chính qui Bắc Việt trong thung lũng sông Dak Akoi phía đông bắc thị xã Kontum, nơi quân Bắc Việt đang chuẩn bị cho cuộc tấn công của họ. Bị áp lực của các đơn vị QLVNCH nầy, quân Bắc Việt đã di chuyển vào thung lũng Ia Tower, và rồi có lẽ đã bôn tẩu vào vùng núi Chi Ro Bu.

Binh sĩ và sĩ quan của hai đại đội thám kích tham dự cuộc hành quân đều biết rằng họ đang dấn thân vào một chiến trận có thể khốc liệt, tuy rằng công tác của thám kích không phải ăn thua với quân Bắc Việt. Họ chỉ có nhiệm vụ xác nhận sự hiện diện của địch và tìm vị trí của chúng để báo cáo lên thượng cấp.

Trước khi rời Kontum, tôi nhận thấy phần lớn quân nhân thám kích đều có vẻ căng thẳng và lo lắng, kể cả các sĩ quan. Do những điều loan truyền từ các đơn vị hoạt động trong vùng thung lũng sông Dak Akoi, những quân nhân thám kích đã xem cuộc hành quân này rất nghiêm trọng. Tôi đã làm cố vấn thám kích gần một năm nay rồi, và tôi chưa bao giờ thấy họ lo lắng như thế. Tôi thấy thám kích được cấp phát và mang theo đạn dược nhiều hơn thường lệ. Họ biết đây sẽ là cuộc hành quân không dễ ăn đâu. Sự lo âu của họ đã tác động đến tôi, vì cuối cùng tôi cũng mang thêm đạn, lựu đạn, và một cục pin dự trữ cho máy truyền tin.

Ðoàn xe chở thám kích từ Kontum đến điểm xuất phát đã đến nơi vào khoảng gần trưa. Thám kích xuống xe, tập họp, và hai đại đội cùng tiến vào vùng hành quân để sau đó rẽ ra hai hướng, mỗi đại đội hướng về mục tiêu của mình. Vài cây số đầu tiên địa thế tương đối bằng phẳng. Chúng tôi đi qua vài ngôi làng bỏ hoang, cỏ mọc um tùm, cảnh tượng đã gieo vào lòng tôi một nỗi lo sợ mông lung, và tôi có thể cảm nhận chính điều đó trong lòng những người lính thám kích quanh tôi.

Ðịa thế bằng phẳng nhường lối cho những mô gò dưới chân núi, và những mô gò nhường lối cho những dốc núi cao. Bức màn che của cây lá khởi đi từ cỏ cây và vòm lá một tầng trên thế đất bằng phẳng đến vòm lá hai tầng ở các mô gò, đến rừng rậm với vòm lá ba tầng của núi cao dốc đứng. Dọc lối tiến quân chúng tôi thấy các đường mòn chạy từ các mô gò dưới chân núi và từ rừng rậm ra quốc lộ. Ðây có thể là lộ trình quân Bắc Việt di chuyển ra quốc lộ để phục kích các đoàn xe quân đội Mỹ và QLVNCH di chuyển giữa Kontum và Pleiku. Khi chúng tôi tiến sâu vào rừng, chúng tôi tìm thấy những vị trí đóng quân tạm của quân Bắc Việt, có đầy đủ hố cá nhân và hầm đặt súng cộng đồng. Một cảm giác bất an dường như xâm chiếm hai đại đội thám kích.

Chúng tôi tiếp tục di chuyển và khi trời tối dần hai đại đội bố trí đóng quân đêm như thường lệ. Sau khi thiết lập các điểm hỏa tập phòng thủ với pháo binh yểm trợ và liên lạc với phòng hành quân để hỏi xem có tin tức gì mới về tình báo hoặc về kế hoạch hành quân, tôi ra ngồi bên ngoài chiếc võng và tấm poncho che mưa nắng của mình và ngước nhìn trời sao. Các vì sao đêm ấy sao tuyệt vời thế, sáng thế, đẹp thế và an bình thế và tôi tự hỏi không biết mình có sẽ được bình yên trở về từ vùng núi đồi này không. Sau đó tôi chui vào võng và ngủ thiếp đi cho đến khi những tiếng người nói léo xéo làm tôi thức giấc. Trong đêm tối vài tên lính Bắc Việt lên tiếng nhục mạ thám kích chúng tôi, mà những quân nhân thám kích thì thừa kinh nghiệm không đáp lại để lộ vị trí của mình. Thậm chí có tên cán binh Bắc Việt nói được chút đỉnh tiếng Anh đã gào lên, “Mày sẽ chết sớm, thằng Mỹ” (“You die soon, Yankee”), vì biết có vài cố vấn Mỹ đi với thám kích. Hiển nhiên quân Bắc Việt đã biết thám kích đang ở đây. Tôi khẽ gọi xin pháo binh tác xạ vào hai điểm trong số những điểm hỏa tập tiên liệu, và những tiếng gào kia im bặt.

Bình minh ló dạng, cơm đã nấu chín, ăn uống xong, và hai đại đội lại rẽ ra, mỗi bên theo lộ trình của mình, tiến sâu hơn vào rừng núi Chi Ro Bu.

Ðại đội 406 có vào khoảng bảy mươi lăm binh sĩ và hai sĩ quan. Trong ba đại đội thám kích, đại đội này xuất sắc nhất và tôi cảm thấy thoải mái khi được biết mình sẽ đi với họ khi hành quân vào tận núi đồi Chi Ro Bu. Ðỉnh cao 1128 thước hay là 3700 feet trên mặt biển là mục tiêu sắp tới của chúng tôi. Cho đến hôm nay chúng tôi chưa chạm trán với quân Bắc Việt nhưng chúng tôi biết họ đang theo dõi chúng tôi khi chúng tôi di chuyển xuyên qua cánh rừng rậm. Chúng tôi đang đi trong vùng vòm lá ba tầng nên tầm nhìn chung quanh chỉ độ mấy feet. Một anh chàng bộ đội Bắc Việt có thể ở khoảng cách một yard mà ta có thể không biết hắn ta đang ở đó. Rừng già, thâm u, và rất im vắng, quá im vắng.

Chúng tôi dừng lại nghỉ một lát, thử máy móc truyền tin, xem lại bản đồ và thấy hồ nghi điểm đứng của mình. Lát sau chúng tôi bắt đầu leo núi.

Chúng tôi biết quân Bắc Việt ở gần đâu đây, và chúng tôi biết họ đang quan sát, theo dõi chúng tôi nhưng chúng tôi có những mục tiêu phải thi hành. Chúng tôi gặp phải thế đất rất dốc, và có sự báo động từ đầu hàng quân chuyền lại phía sau. Tôi tiến lên phía trước mới hay toán đi đầu đã phát giác những bậc cấp dẫn lên núi, vài chỗ có cả lan can để vịn tay. Anh em thám kích biết ngay mình đang ở trong canh bạc, đối dầu với một lực lượng địch rất lớn. Chúng tôi không đi theo các bực cấp, sợ đụng mìn bẫy hay bị phục kích, nhưng băng rừng lên núi. Tại một điểm chúng tôi phát giác đường dây điện thoại giăng từ trên núi xuống. Vị đại đội trưởng thám kích gọi về Bộ Tư Lệnh Biệt Khu báo cáo những gì vừa tìm thấy, và nhận được lệnh tiếp tục tiến chiếm mục tiêu kế tiếp. Bất đắc dĩ, người đại đội trưởng ra lệnh tiếp tục di chuyển.

Chúng tôi tiếp tục leo núi, có cảm giác gần địch nhưng chưa đụng độ. Chẳng bao lâu chúng tôi lên đến đỉnh núi giống như một quả đồi hay một thế đất cao bên sườn của ngọn núi lớn Chi Ro Bu. Ngọn đồi này giống như một đường đỉnh ngắn. Có dấu vết cho thấy vùng này mới đây đã có người sử dụng, có thể là một đơn vị chính qui Bắc Việt đóng quân đêm. Ðại đội dừng ở đây trên dãi đường đỉnh cụt ngủn để nghỉ mệt. Nhiều anh lính lấy cơm nắm, vắt từ cơm dư sáng nay, ra ăn. Nghỉ ngơi xong, chúng tôi tiếp tục leo núi.

Chúng tôi vừa rời cái đường đỉnh cụt ngủn được một lát thì một phát súng bắn vào tôi từ một khoảng cách gần đâu đây. Phát súng dường như chỉ hụt đầu tôi khoảng một phân inch. Thám kích dàn đội hình phòng thủ, nhưng chẳng thấy động tĩnh gì tiếp theo. Có vẻ như đoàn quân thám kích vừa đi qua gần vị trí canh gác của một lính Bắc Việt. Anh ta đợi một mục tiêu tốt, một người Mỹ như tôi (cao sáu feet hai inches, gần gấp đôi chiều cao của anh em thám kích quanh tôi, và nổi bật như ánh điện nê-ông chớp nháy) và nổ súng. Thật ơn phước, anh ta đã bắn trật và sau khi đợi ít phút cho thần kinh của tôi lắng xuống, chúng tôi lại lên đường.

Chúng tôi đâu có ngờ, khoảng hai tiếng đồng hồ sau khi tôi bị bắn tỉa, chúng tôi đang tiến vào một trận địa phục kích khéo léo của quân Bắc Việt. Chẳng ai biết rõ sự thể ra sao, nhưng theo suy đoán thì lực lượng Bắc Việt đã bố trí trận địa phục kích rộng lớn hình chữ U để chúng tôi bước vào và bị đánh từ ba hướng. Thành phần đi đầu nghi ngờ có gì không ổn và cả đoàn quân dừng lại. Khinh binh tiền sát và hai khinh binh nữa được lệnh tiến bước dò đường.

Khi họ đi tới thì mọi sự phơi bày ra hết, khu rừng rậm vang dội hỏa lực địch không sao tả xiết. Không tưởng tượng nổi cái khối lượng hỏa lực mãnh liệt đổ về phía chúng tôi. Có cả vũ khí cộng đồng, vũ khí cá nhân, lựu đạn, hỏa tiễn B40. Không sao tiến tới trong lượng hỏa lực như vậy. Ba người lính thám kích đi dò đường đã chết ngay tại chỗ. Thật đáng buồn, chúng tôi không lấy xác họ được. Không đến được với chiến hữu của mình là cả một sự đau khổ đối với tập thể thám kích. Nhiều người tin rằng người chết phải được chôn cất, nếu không, vong linh họ cứ vất vưởng trong cõi trần này mãi mãi.

Chúng tôi đã khám phá sớm cuộc phục kích nhưng phải rút lui xuống núi để không bị tiêu diệt. Quân Bắc Việt hình như đang dồn quân và di chuyển để vây hai bên sườn chúng tôi khi thám kích triệt thoái xuống núi. Khi súng bắt đầu nổ tôi lập tức gọi pháo binh yểm trợ nhưng tác xạ của pháo binh dường như chỉ có tác động hạn chế đối với khối lượng hỏa lực của quân Bắc Việt. Ðài trung ương tác xạ pháo binh duy trì một hàng rào hỏa lực phía sau và hai bên sườn chúng tôi, cầm chân quân Bắc Việt, khi chúng tôi di chuyển xuống núi.

Cuối cùng chúng tôi trở lại được cái đường đỉnh cụt ngủn. Cơ may duy nhất của chúng tôi là tìm cách cố thủ nơi nào có thuận lợi của thế đất cao và ngọn đồi này bên sườn dãy núi lớn cho chúng tôi địa thế cao đó. Không hiểu sao, quân Bắc Việt không truy kích, điều nầy giúp thám kích có thời gian thiết lập một vòng đai phòng thủ tốt và tận lực đào hầm hố. Chúng tôi đã lãnh thêm hai tử thương và một số bị thương nhẹ do hỏa lực dữ dội của địch, nhưng không mang theo được hai xác đồng đội xuống núi với chúng tôi. Gọi trực thăng tản thương là điều không thể được với rừng rậm tàng lá ba tầng và không có bãi đáp gần vị trí chúng tôi. Dù có bãi đáp đi nữa, hỏa lực quân Bắc Việt mãnh liệt như thế, một chiếc trực thăng đáp xuống hay bay là là trên mặt đất cũng sẽ lâm nạn.

Việc kể lại câu chuyện nầy thật rất khó khăn đối với tôi và sẽ còn khó khăn hơn nữa khi khơi dậy sự việc của ba ngày sắp tới. Vài người bạn tốt sẽ ra đi và tôi biết cố gắng moi ký ức từ trong óc mình, ở đó tôi cố đè nén bao lâu nay, sẽ khổ tâm và đau đớn. Tôi sẽ khóc như tôi vẫn luôn luôn rơi lệ mỗi khi ký ức đưa tôi về lại khoảng thời gian và không gian nầy.

Ðể phối hợp yểm trợ của Mỹ hiệu quả hơn, vị đại đội trưởng thám kích yêu cầu phân phối một cố vấn Mỹ bên phải hay mặt phía nam, và một cố vấn Mỹ bên trái hay mặt phía bắc của vòng đai đóng quân, với hướng trước mặt hay mặt phía đông đối diện núi Chi Ro Bu. Mặt sau hay mặt phía tây là hướng đi xa núi Chi Ro Bu. Ông ấy cùng với viên cố vấn kia bố trí ở mặt bắc của vòng đai và viên đại đội phó và tôi tìm một vị trí ở mặt nam tuyến phòng thủ. Chúng tôi may mắn gặp một thân cây to với một lỗ bộng trong gốc từ đó có thể quan sát cả mặt phía đông và mặt phía nam của vòng đai phòng thủ. Lỗ bộng dưới gốc cây gần giống như một pháo đài mà ít nhất chúng tôi có trần để che chở. Người lính mang máy truyền tin cho tôi và người lính hiệu thính viên của viên đại đội phó nhảy ngay xuống cái hố dưới gốc cây. Tôi hơi lo rằng hai cần ăng-ten tại một vị trí sẽ thu hút hỏa lực của quân Bắc Việt, nên đã phủ thêm mấy bụi cây để che chúng lại.

Lúc đầu tôi thấy rởn tóc gáy với ý nghĩ bò xuống cái lỗ bộng trong gốc cây, tưởng tượng đến những con vật bò sát đang làm tổ trong ấy. Tôi đang suy nghĩ đến những con rắn rít đó thì có tiếng nổ “départ” thật rõ của súng cối và tôi quên ngay mọi con vật bò trườn và phóng xuống chỗ ở mới của tôi khi những quả đạn cối bắt đầu nổ trên vòng phòng thủ của chúng tôi.

Khi đạn cối nổ chung quanh, thì vòng đai phòng thủ của chúng tôi ở mặt đối diện ngọn núi lớn cũng bắt đầu nhận hỏa lực cá nhân của địch. Tiếp theo đó là một đợt tấn kích thăm dò nhỏ. Lực lượng thám kích liền đẩy lui quân Bắc Việt và may phước, trận pháo kích cũng giảm dần rồi im bặt.

Vị đại đội trưởng thám kích liên lạc bằng vô tuyến với đại đội 403 và bảo họ tìm cách bắt tay với chúng tôi nhưng họ đang đụng nặng với quân Bắc Việt nên không thể di chuyển. Chúng tôi đành tự lực.

Trong ánh sáng nhá nhem, tôi thiết lập những điểm hỏa tập phòng thủ tiên liệu có đánh số với Ðài Trung Ương Tác Xạ pháo binh. Nếu tôi cần pháo binh tác xạ tôi có thể yêu cầu bằng cách cho Ðài Trung Ương Tác Xạ biết số của mục tiêu và mọi điều chỉnh, và thế là hỏa lực pháo binh sẽ đang trên đường đi. Viên cố vấn Mỹ tại tuyến phòng thủ mặt phía bên kia cũng làm tương tự.

Một phi công điều khiển oanh kích của không quân Mỹ trên chiếc máy bay nhỏ của anh ta vào tần số liên lạc với tôi và bảo nếu chúng tôi cần yểm trợ anh sẽ lên vùng. Chúng tôi đang bị hỏa lực đại liên cỡ lớn từ dãy núi lớn bắn xuống, nên tôi cho viên phi công tọa độ nơi tôi phỏng đoán địch đặt súng và anh ta nói sẽ xem có thể làm gì để giúp chúng tôi. Sau mấy phút, tôi thấy chiếc phi cơ điều khiển oanh kích bay tới và bắn trái khói vào dãy núi lớn, ngay tọa độ tôi cho anh ta. Rồi tiếp đến là tiếng gầm thét của máy bay phản lực khi chúng nhào xuống mục tiêu bốc khói do phi cơ điều khiển oanh kích để lại. Những màn nhào lộn này được tiếp nối bằng những tiếng nổ của bom do chúng thả xuống và bằng tiếng gầm khủng khiếp của động cơ phản lực khi chúng cất lên bay xa. Nhờ vậy hỏa lực đại liên hạng nặng đã im tiếng trong đêm. Tôi cám ơn viên phi công điều khiển oanh kích và anh ta bảo nếu cần yểm trợ xin cứ gọi.

Trong mấy tiếng đồng hồ sau đó chúng tôi không bị một trận tấn kích qui mô nào nhưng bị quấy rối thăm dò vì quân Bắc Việt muốn điều nghiên vị trí chúng tôi. Chúng tôi cũng bị nhiều đợt pháo kích bằng súng cối, cứ mỗi lần ít quả. Khi đêm dần tàn và bình minh sắp ló dạng quân Bắc Việt đánh mạnh ở mặt phía đông và phía bắc. Một loạt hỏa lực đạn cối dữ dội bắt đầu rơi trên vị trí chúng tôi kèm theo nhiều hỏa tiễn B40 do bộ binh Bắc Việt bắn, phần lớn đụng cây cối nổ tung rải miểng nóng hổi khắp mặt đất.

Chiến trận ở mặt bắc của tuyến phòng thủ ác liệt, và lần đầu tiên trong nhiệm kỳ của mình tại Việt Nam tôi mới nghe tiếng ré xé trời của kèn đồng và tu-huýt mà quân Bắc Việt dùng để thúc quân. Viên cố vấn Mỹ ở hướng đó đang điều khiển pháo yểm của Mỹ, và từ vị trí thuận lợi của mình, tôi điều hỏa lực pháo binh về mặt phía đông của phòng tuyến chúng tôi. Cuối cùng quân Bắc Việt rút lui, bỏ lại trên sườn đồi nhiều xác chết và thương binh. Ðơn vị thám kích có bốn chết và nhiều bị thương. Tiếng rên la của thương binh hai bên thật khiếp đảm và vang dội buổi bình minh. Các y tá thám kích chăm sóc thương binh hết sức mình vì không thể có trực thăng tản thương. Với tình hình chiến trường này, một số thương binh có thể bị tử vong vì không được tản thương.

Vì giao tranh nặng, số anh em thám kích nào phải đứng mũi chịu sào hướng tấn công mạnh nhất hầu như không còn đạn dược. Các hạ sĩ quan của đại đội phải đi gom đạn từ các thám kích ở mặt phía nam và phía tây của vòng đai phòng thủ để phân phối lại cho những ai hết đạn. Ðạn dược đã trở nên một mối ưu tư lớn.

Vị đại đội trưởng thám kích gọi máy xin tái tiếp tế đạn và nước uống nhưng trước khi chuyến tái tiếp tế đến được thì quân Bắc Việt lại một lần nữa tấn công chúng tôi, lần này đánh vào phía của tôi. Tôi lập tức gọi pháo binh yểm trợ và điều chỉnh tác xạ, cho đạn rơi thật gần mình rồi điều chỉnh tác xạ rải dần đi xuống sườn đồi về phía quân Bắc Việt. Quân Bắc Việt vẫn cứ tiến lên, di chuyển từ thân cây nầy đến thân cây kia. Thám kích ném lựu đạn và bắn vào lính Bắc Việt đang tiến tới. Hỏa lực của lực lượng tấn công thật dữ dội, súng cá nhân, súng cộng đồng và hỏa tiễn B40. Khói thuốc nổ vờn không trung như một màn sương. Lại cũng tiếng ré của kèn đồng và thanh âm như xé màn nhĩ của tu-huýt.

Một toán quân Bắc Việt đang tiến về phía lỗ bộng dưới gốc cây của chúng tôi. Ðạn dược khan hiếm, nên chúng tôi lựa mục tiêu, nhắm và bắn thận trọng, không muốn phí một viên đạn. Tôi nhắm và bắn một tên lính Bắc Việt dường như đang nhìn tôi và tiến đến tôi. Hắn giật nẩy người khi viên đạn của tôi trúng hắn nhưng vẫn tiếp tục tiến tới. Tôi bắn một phát nữa và hắn quỵ xuống nhưng lại đứng dậy và cứ tiến tới. Tôi không tin nổi, nhưng kìa, hắn đang tiến tới gần tôi. Tôi bắn nữa, lần này hắn ngã gục xuống rồi cố bò về phía tôi. Cuối cùng khi hắn chết thì chỉ còn cách miệng hố của tôi khoảng một sãi tay, và đôi mắt dường như đang dòm tôi, với miệng cười nhạo báng. Suốt thời gian trên mỏm đồi, mỗi lần từ trong hố ẩn núp nhìn ra tôi phải chạm mặt với miệng cười nhạo báng kia.

Hỏa lực pháo binh do tôi điều khiển tiếp tục rải đạn lên xuống sườn đồi, đốn ngã đội hình tấn công của địch nhưng nhiều lính Bắc Việt đã xông sát vị trí chúng tôi đền nỗi tác xạ pháo binh không làm gì được chúng, và chúng đang đánh xáp lá cà với thám kích. Thám kích chế ngự được chúng nhưng quân Bắc Việt tiếp tục tấn công. Thám kích từ mặt phía bên kia được điều sang tăng cường cho chúng tôi.

Viên phi công điều khiển oanh kích của không lực Mỹ vào tầng số vô tuyến của tôi và hỏi xem anh ta có thể giúp gì không. Tôi yêu cầu anh ta chấm vùng mục tiêu dưới chân đồi và những trục nghi ngờ là lộ trình tiến sát đến chân đồi. Một lát sau, anh ta gọi không yểm đến đánh vào những vùng đó.

Cuộc tấn công của quân Bắc Việt thưa dần rồi ngưng hẳn. Lính Bắc Việt chết và bị thương nằm ngổn ngang trước khu vực phòng thủ của chúng tôi. Cây cối và thảo mộc bên trong lẫn bên ngoài vòng đai phòng thủ và toàn ngọn đồi đã đổi dạng từ rừng dày đặc thành những bộ xương tan tành của rừng rậm trước đây. Thám kích nhận lãnh thêm ba tử thương và nhiều bị thương, trong đó một số anh em còn có thể tiếp tục chiến đấu, một số khác thì không. Một lần nữa, các y tá thám kích cố gắng hết sức mình chu toàn nhiệm vụ.

Một trực thăng tái tiếp tế đến và cố bay lơ lửng tại chỗ trên vị trí chúng tôi nhưng hỏa lực dữ dội của quân Bắc Việt đã đuổi chiếc máy bay đi. Nó bay một vòng rồi trở lại trên vị trí chúng tôi với vận tốc nhanh, đạp những thùng đạn xuống. Phần lớn những thùng đạn rơi bên ngoài vòng đai của chúng tôi, và những thùng rơi bên trong khu vực chúng tôi thì vỡ tung khi chạm đất làm đạn túng toé khắp nơi. Lính chạy đi nhặt đạn trong khi xạ thủ bắn tỉa của quân Bắc Việt nhắm bắn họ. Ðạn dược thu hồi xong được phân phát cho mọi người. Số đạn dược chúng tôi thu hồi được chắc chắn là “đỡ khổ”, nhưng không đủ để đương đầu với nhiều đợt tấn công nữa.

Sau đợt tấn công vừa rồi, cũng gần trưa. Tất cả trở nên im vắng một cách lạ lùng, không có quấy rối thăm dò, không có pháo kích. Thám kích thừa dịp tu bổ vị trí, chăm sóc thương binh và gắng nghỉ xả hơi. Thật đáng phục khi thấy những thương binh còn khả năng chiến đấu đã đứng vững ở phòng tuyến như thế nào. Một số thương binh không còn khả năng trụ ở vị trí chiến đấu nhưng có thể sử dụng vũ khí khi cần, đã xin được cầm súng để phòng khi địch tấn công hay đột nhập vào phòng tuyến. Nếu có thể được, họ cố gắng bảo vệ đồng đội bị thương.

Lực lượng hành quân lại yêu cầu một chuyến tái tiếp tế nữa, xin đạn dược và nước uống. Khoảng một hay hai tiếng đồng hồ sau, trực thăng tái tiếp tế đến và được hai trực thăng võ trang hộ tống. Trực thăng võ trang đã yểm trợ hết sức mình nhưng trực thăng tái tiếp tế lại cũng bị hỏa lực quân Bắc Việt đuổi bay xa và cũng lại bay trên đầu chúng tôi với vận tốc nhanh và đạp những thùng nước và thùng đạn xuống. Phần lớn những thùng nước bị vỡ tung khi chạm đất nhưng một ít nước lấy được đã dành riêng cho thương binh. Cũng như lần trước, phần lớn những thùng đạn rơi bên ngoài vòng đai phòng thủ và những thùng rơi bên trong vòng đai bị vỡ tung nhưng không đến nỗi tệ hại như lần trước và đạn dược đã được thu hồi và phân phát. Tình trạng đạn dược có cải thiện nhưng vẫn còn nghiêm trọng.

Xế trưa ngã dần sang chiều tối và quân Bắc Việt vẫn để chúng tôi yên ổn, có lẽ không phải đang gom quân để đánh nữa, nhưng chắc chắn đang liếm những vết thương rỉ máu. Nhiều lính Bắc Việt nằm chết trên sườn đồi của chúng tôi và vài tên bị thương vẫn còn đang rên la. Hoàng hôn chuyển sang đêm tối và hỏa châu do pháo binh yểm trợ bắn đã tỏa ánh sáng kỳ ảo trên sườn đồi và trên vị trí chúng tôi. Ánh sáng hỏa châu được mọi người hoan nghênh vì nó giúp chúng tôi quan sát được quân Bắc Việt nếu chúng có giở trò gì. Cùng lúc hỏa châu bắt đầu bắn lên, quân Bắc Việt cũng bắt đầu rót đạn cối vào chúng tôi, cứ hai hay ba quả một lúc. Không ai hề gì cả nếu ẩn dưới hầm, trừ phi quả đạn rơi ngay vào hố.

Hỏa lực súng nhỏ lúc đầu nghe lẻ tẻ, từ từ tăng cường độ, rồi rộ lên ở mặt phía tây của vòng đai. Quân Bắc Việt hình như đang đánh vào một khu vực nhỏ của vị trí chúng tôi, chậm rãi di chuyển mũi tấn kích dọc theo vòng đai về phía bắc. Ðịch đang thăm dò lực lượng chúng tôi, tìm điểm yếu nhất. Một lát sau tiếng súng im bặt.

Lại im lặng, ngoại trừ đạn pháo của súng cối. Tôi nhận được tin báo từ phòng hành quân rằng Spooky sẽ lên vùng và sẵn sàng yểm trợ. Spooky là phi cơ AC-47 của Mỹ trang bị 3 súng liên thanh nhỏ hoặc liên thanh nhiều nòng. Công dụng chính của nó là yểm trợ tiếp cận cho bộ binh. Spooky có thể ở trên vùng mấy tiếng đồng hồ, cung cấp hỏa lực chế ngự đối phương rất hiệu quả. Ba giây khạc đạn của tất cả các nòng liên thanh trên một chếc Spooky có thể rải một viên đạn trong mỗi foot vuông của một sân football. Mấy phút sau Spooky gọi báo cho biết đang ở trên đầu chúng tôi và sẵn sàng yểm trợ. Tôi cho họ biết hiện giờ tình hình yên tĩnh ngoại trừ đạn cối đang bắn vào vị trí chúng tôi. Spooky nói sẽ cố tìm ánh lửa xuất phát từ các nòng súng cối và sẽ diệt chúng. Thật thế, lần kế tiếp quân Bắc Việt bắn súng cối, Spooky khám phá được vị trí súng và đã diệt bằng một tràng liên thanh. Tôi cám ơn Spooky và yêu cầu họ tác xạ trên các lộ trình tiến sát đến vị trí chúng tôi để đề phòng quân Bắc Việt đang tập trung để mở một đợt tấn công mới. Spooky đáp ứng bằng cách trải hỏa lực hủy diệt trên các lộ trình tiến đến vòng đai phòng thủ của chúng tôi.

Hiển nhiên quân Bắc Việt biết Spooky đang bay trên vùng và chúng ngán vũ khí tuyệt vời này. Bỗng chốc tôi nghe từ máy truyền tin của mình giọng rõ ràng người Việt Nam gọi “Spooky, Spooky”. Quân Bắc Việt đã tìm được tần số của tôi và đang thử gọi Spooky. “Spooky, Spooky” lại vang lên nhiều lần từ miệng quân Bắc Việt. Viên phi công của Spooky vào tần số liên lạc và nói, “nghe như những người bạn nhỏ của chúng ta đang gọi tôi.” Anh ta cười và nói có thể thả hỏa châu soi sáng nếu cần và sẽ bay vòng vòng trên vị trí cho đến khi phải rời vùng lấy thêm nhiên liệu.

Ðêm trôi qua yên tĩnh như lần trước từ lúc trận chiến kinh khủng trên quả đồi bắt đầu. Sự yên lặng bị phá tan với tiếng nổ của lựu đạn do thám kích ném từ phía tôi, mặt phía nam của vòng đai phòng thủ. Họ vừa nghe tiếng bước chân di chuyển ngay dưới sườn đồi. Những tiếng nổ của lựu đạn được đáp lại ngay lập tức bằng hỏa lực dữ dội của súng nhỏ và hỏa tiễn B40 từ phía lực lượng Bắc Việt. Bộ phận đi đầu của địch đã có thể bò gần vòng phòng thủ mấy feet trước khi bị phát giác. Bọn chúng có thể là đơn vị đặc công tinh nhuệ, được huấn luyện đặc biệt để bí mật tiến sát và nằm phục sẵn chờ đến giây phút tấn công. Spooky đã thấy những đốm lửa đạn của quân Bắc Việt và lập tức thả hỏa châu và khai hỏa xuống lực lượng tấn công, rãi hỏa lực trên sườn đồi. Quân Bắc Việt tiếp tục tấn kích một lát nhưng rồi tất cả trở nên im lặng, và tình hình yên tĩnh cho đến sáng. Spooky vào tần số liên lạc với tôi và báo cho biết phải rời vùng để đổ thêm nhiên liệu nhưng sẽ trở lại nếu cần.

Ánh sáng ban mai trở lại đã đem đến cho mọi người một cảm tưởng an tâm nhưng tôi tin chắc tất cả anh em thám kích đều băng khoăn không biết rồi chúng ta có thoát khỏi nơi nầy không. Ðến giờ phút nầy tôi không đếm hết được số thương vong của thám kích nhưng tôi biết là cao. Ðạn dược còn ít, và thực phẩm, nước uống coi như đã cạn. Nước đang là vấn đề quan trọng không kém đạn dược, và nếu không được tiếp tế sớm, nhiều người trong chúng tôi sẽ ngã gục vì cơ thể thiếu nước. Vị đại đội trưởng thám kích gọi máy yêu cầu tái tiếp tế ngay những thứ cần thiết đó và được cho biết mọi thứ đã sẵn sàng và máy bay sẽ thả xuống sớm.

Buổi sáng yên tĩnh, không có pháo kích, chỉ lẻ tẻ tiếng súng nhỏ. Lợi dụng những thân cây cao to bị ngã đổ quanh đồi vì chiến trận, một số lính Bắc Việt áp sát vị trí chúng tôi, ở đó được an toàn không bị hỏa lực pháo binh. Những tên lính Bác Việt núp gữa những cây đổ dưới sườn đồi la hét chửi bới thám kích, và thám kích chửi lại. Thỉnh thoảng một anh thám kích ném một quả lựu đạn xuống đồi về phía quân Bắc Việt, và tiếp theo là một tràng cười chế giễu và chửi bới của tên lính Bắc Việt đang ẩn ngoài tầm lựu đạn. Tôi đang xem màn biểu diễn này thì nghe một anh thám kích gọi tôi đến vị trí của anh. Tôi bò về phía anh thám kích, và anh ta đưa tôi một quả lựu đạn và chỉ xuống dưới đồi. Ðoạn anh thám kích hét một câu chửi, và được đáp lại một câu chửi của người lính Bắc Việt. Do tiếng hét của người lính Bắc Việt tôi ước đoán vị trí và ném quả lựu đạn đến đó. Lựu đạn tôi ném xa hơn lựu đạn của anh thám kích, đã rơi đúng mục tiêu. Anh thám kích lại hét một câu chửi nữa nhưng không nghe đáp lại từ tên lính Bắc Việt gần vị trí khả nghi. Dĩ nhiên sau khi tôi giúp anh thám kích kia, tôi đã được các thám kích khác dọc tuyến phòng thủ cầu cứu. Dễ chừng tôi đã ném mười lăm đến hai mươi quả lựu đạn với động tác ném baseball buổi sáng đó, và cánh tay tôi đau rã rời.

Một chiếc trực thăng tái tiếp tế cố lơ lửng trên đầu chúng tôi, bị địch bắn phải bay xa, thả một trái khói. Chiếc trực thăng thứ hai bay nhanh đến và đạp những thùng đồ tiếp tế xuống với phần lớn rơi bên ngoài vòng đai của chúng tôi. Cố gắng thu hồi những thùng đồ tiếp tế rơi bên ngoài vị trí là cầm chắc cái chết. Chúng tôi đã không lấy được bao nhiêu đạn, nhưng chúng tôi lấy được nhiều nước uống đang cần.

Chuyến tái tiếp tế xong rồi, mọi sự lại yên tĩnh. Khoảng một thời gian ngắn sau đó vị trí chúng tôi lại bị pháo kích nhiều bằng đạn cối. Chúng tôi cũng bị hỏa lực đại liên và hỏa tiễn B40 từ trên núi lớn bắn xuống. Tôi liền gọi máy bay điều khiển oanh kích lên vùng và gọi pháo binh tác xạ vào dãy núi lớn. Hỏa lực pháo binh chẳng làm giảm cường độ hỏa lực địch bao nhiêu.

Phi cơ điều khiển oanh kích đến cũng vừa lúc địch đang mở đợt tấn công mạnh khắp mặt phía bắc, phí nam, và phía đông của vị trí chúng tôi. Ðợt tấn công nầy là mãnh liệt nhất từ khi chúng tôi bám ngọn đồi nầy.

Tôi liên lạc với viên phi công điều khiển oanh kích và tường trình cho anh ta rõ tình hình đang diễn ra ở đây. Anh ta nói có thể yêu cầu Spooky và phản lực cơ lên vùng trong vòng ba mươi phút, và anh ta có thể giúp điều chỉnh hỏa lực pháo binh yểm trợ.

Tôi điều chỉnh tác xạ pháo binh từ dãy núi lớn sang các sườn đồi của chúng tôi để cố chận đứng lực lượng bộ binh của quân Bắc Việt. Một số thám kích từ mặt phía tây được điều động vào giữa vị trí để làm lực lượng tiếp ứng khi điểm nào dọc vòng đai phòng thủ cần.

Vào thời gian nầy quân Bắc Việt phá rối tần số chính máy truyền tin của toán cố vấn bằng cách cho phát thanh nhạc Việt trên ống liên hợp mở. Tần số chính không sử dụng được. Tôi chỉnh máy sang tần số giải tỏa, và trong khoảng một tiếng đồng hồ quân Bắc Việt lại dò ra tần số và quấy phá nữa. Chúng tôi không còn liên lạc truyền tin. Vị đại đội trưởng thám kích cho hay địch cũng đang phá rối tần số của mình. Viên cố vấn kia và tôi đã phá hủy cuốn đặc lệnh truyền tin của chúng tôi vì vị trí của chúng tôi có nguy cơ bị tràn ngập. Ðặc lệnh truyền tin là tập tài liệu nhỏ chúng tôi mang theo, gồm có mật mã tryền tin dùng để giữ bí mật cho những công điện, tần số liên lạc cùng danh hiệu của các đơn vị bạn, và các điều bí mật khác mà nếu lọt vào tay quân Bắc Việt thì thật tai hại.

Tôi rà máy truyền tin dò tìm tần số một một đơn vị bạn để thiết lập liên lạc. Cuối cùng tôi liên lạc được với một đơn vị bảo trì ngoại vi Pleiku về phía nam. Thật khó khăn để thuyết phục cho họ tin mình không phải là địch, nhưng rồi rốt cuộc cũng được họ giúp tiếp vận những điều mình yêu cầu, và với sự trợ giúp của họ, chúng tôi đã có thể thiết lập tần số chính và tần số giải tỏa mới. Chẳng được bao lâu, quân Bắc Việt lại khám phá ra tần số chính mới của chúng tôi và quấy nhiễu nữa, nhưng họ không tìm ra hay quấy nhiễu tần số giải tỏa mới của chúng tôi.

Quân Bắc Việt đang dốc toàn lực đánh chúng tôi. Ðây là một trận đánh lớn, gần như một trận quyết sống mái đối với chúng. Chung quanh vị trí chúng tôi, thám kích đang cố thủ nhưng áp lực địch thì dữ dội. Ðạn dược đang thiếu trầm trọng và anh em thám kích buộc phải bắn từng phát một để bảo đảm mỗi viên đều trúng đích.

Quân Bắc Việt đang tấn công rất ác liệt vào mặt phòng thủ phía của tôi. Tôi liên lạc với phi công điều khiển oanh kích và anh ta cho biết quan sát rất rõ những gì xảy ra dưới đó và sẽ điều khiển pháo binh. Tôi quay sang tập trung chú ý đối đầu với quân Bắc Việt đang tiến lên đồi.

Tôi có viết một bài thơ, nó sẽ diễn tả lại khoảng thời gian gần hai tiếng đồng hồ sắp tới của chiến trận sống động hơn văn xuôi. Dưới đây là bài thơ đó.

Những Bóng Hình

Chúa ơi, bọn chúng lại đến!

Tôi hãi quá… tôi không muốn chết!

Tôi nhìn qua miệng hố và thấy

Những bóng hình xám xịt chơi vơi bên dưới

Những bóng hình chạy từ gốc cây đến gốc cây

Những bóng hình tiến lên dốc đồi

Những bóng hình di động để giết tôi

Những bóng hình di động để cướp đi mộng đẹp của đời tôi

Tôi giương súng nhắm một bóng hình chơi vơi bên dưới

Giờ gần hơn… giờ rõ hơn

Tôi bóp cò và một hình hài ngã xuống

Miệng há hốc như nói với chính mình

Những bóng hình khác rõ hơn đang tiến đến tôi

Bắn tôi

Ném lựu đạn vào tôi

Tiến đến tìm tôi

Tôi thấy khói từ nóng súng của chúng

Cảm được viên đạn lướt qua gần sát thân mình

Cảm được chấn động của lựu đạn chúng nổ

Nghe tiếng rít của hỏa tiễn bay qua

Tiếng ré của kèn đồng chúng xung trận

Âm thanh xé màng nhĩ của tiếng tu huýt

Tôi hét lên và run vì sợ

Nhưng cẩn thận ngắm súng vào những bóng hình bên dưới

Siết cò súng hết phát nầy đến phát khác

Không thể để trượt… gần hết đạn rồi

Không thể để trượt… không được phí một viên

Những bóng hình tràn ngập khắp nơi

Những bóng hình sao nhiều đến thế

Xin Chúa giúp con

Tôi siết cò súng nhưng không gì xảy ra

Chúa ơi, con hết đạn rồi!!!

Tôi rút băng đạn ra khỏi súng và với lấy một băng khác

Tôi sục sạo nhưng không còn gì… hốt hoảng, hốt hoảng, hốt hoảng

Tôi tìm được một băng đạn… băng cuối, và lắp vào súng

Ngắm và bắn, ngắm và bắn và bắn và bắn

Thêm nhiều bóng hình ngã gục

Xác thân nằm mọi nẻo

Chết chóc đang vây quanh tôi

Những bóng hình đang xông tới

Những bóng hình hiện diện khắp nơi

Những bóng hình đang xáp đến bên tôi

Những bóng hình nhiều quá đi thôi

Xin hãy giúp tôi!!

Chúng tôi cực kỳ khan hiếm đạn và may thay một trực thăng tái tiếp tế đang trên đường đến với chúng tôi. Spooky chưa đến nhưng các phản lực cơ đã đến và máy bay điều khiển oanh kích đã giao nhiệm vụ cho họ đánh sườn dãy núi lớn và những nơi nghi ngờ là lộ trình tiến sát của địch.

Trực thăng tái tiếp tế đã đến và phải đạp những thùng đồ tiếp tế xuống khi bay ngang đầu chúng tôi với vận tốc nhanh. Hỏa lực bắn vào trực thăng thật dữ dội nhưng nó lơ lửng tại chỗ trên không vừa đủ để phần lớn những thùng tiếp tế rơi đúng trên vị trí chúng tôi. May thay, trực thăng chở toàn đạn, và các thương binh đã phụ giúp phân phối đạn đến thám kích dọc vòng đai phòng thủ. Chúng tôi đã lấy lại niềm hy vọng, thật vô vàn cám ơn người phi công trực thăng nầy!

Quân Bắc Việt đang chọc thủng phòng tuyến chúng tôi ở nhiều điểm và lực lượng tiếp ứng đã rượt đuổi và bắn hạ những tên đã lọt vào bên trong vòng đai. Lực lượng này cũng bổ sung các vị trí thiếu quân dọc phòng tuyến. Lại thêm xác chết và lính bị thương của quân Bắc Việt khắp ngọn đồi và bên trong vòng đai của chúng tôi. Tôi yêu cầu viên phi công điều khiển oanh kích điều chỉnh tác xạ pháo binh sát phòng tuyến chúng tôi với “cự ly hiểm nghèo”. Chúng tôi đang có nguy cơ bị địch tràn ngập. Tác xạ pháo binh gần như đang rơi trên vị trí chúng tôi, nhưng đang làm khốn đốn quân Bắc Việt. Chốc lát sau đó Spooky lên vùng. Lập tức Spooky được giao nhiệm vụ đánh bằng liên thanh chung quanh vị trí chúng tôi. Pháo binh ngưng tác xạ trong khi Spooky làm nhiệm vụ của mình.

Anh lính thám kích mang máy truyền tin cho vị đại đội phó bị bắn trúng đầu và chết, nhưng trước khi anh ta chết máu chảy ngập thành một vũng trong bộng cây. Trong khi trận đánh tiếp diễn, chúng tôi trong bộng cây bị tắm máu của người lính đang thương ấy.

Trong khi trận chiến đang tới hồi mãnh liệt nhất thì B52 rải bom trên rặng núi lân cận, vùng oanh kích gần chúng tôi hơn khoảng cách thường được cho phép. Hậu quả của bom thật không tưởng tượng được. Mặt đất đong đưa như trong một trận động đất lớn và dưỡng khí bị lực nổ hút, làm cho khó thở.

Sự xuất hiện của Spooky dường như đã thay đổi số phận chúng tôi bằng cách chận đứng đà tấn kích của quân Bắc Việt vào ngọn đồi nhờ hỏa lực liên thanh trên máy bay. Khi quân Bắc Việt lui quân, Spooky tác xạ trên các vùng nghi ngờ là lộ trình rút lui. Trên đỉnh đồi, chúng tôi vẫn nhận lãnh hỏa lực mạnh của địch từ rặng núi lớn bắn sang và các chiến đấu cơ phản lực đang chiếu cố ngọn núi đó. Trời đã xế chiều và trận tấn công coi như đã kết thúc. Tiếng rên la của thương binh hai bên nghe thật kinh hồn. Tôi giả vờ không thấy khi thương binh Bắc Việt nằm trong vòng đai bị bắn cho chết. Ðó là lần duy nhất tôi thấy thám kích giết thương binh Bắc Việt. Về phần thám kích, những thương binh còn đi được thì ở tại vị trí, còn những người chết, và những thương binh không thể chiến đấu thì được tập trung vào khoảng giữa vòng đai.

Những người lính thám kích, theo quan sát của tôi, gần giống như những con người máy, cũng sinh hoạt, cử động nhưng như người mất hồn và hết sức bơ phờ mệt mỏi. Tôi nghĩ mình cũng như vậy. Tôi biết mình cũng cảm thấy như thế. Ðạn dược của những người đã mất và những người bị loại khỏi vòng chiến được gom lại và phân phối cho các chiến binh khác trên phòng tuyến.

Spooky và các phản lực cơ tiếp tục đánh các vị trí khả nghi có quân Bắc Việt, nhưng vị trí của chúng tôi thì yên tĩnh. Vị đại đội trưởng thám kích nhận được liên lạc từ đại đội 403 qua máy truyền tin, thông báo họ đang cố gắng di chuyển đến vị trí của chúng tôi. Một trực thăng tản thương đang cố bay lơ lửng trên không phận chúng tôi để câu các thương binh lên nhưng bị hỏa lực của quân Bắc Việt buộc phải bay xa. Quân Bắc Việt vẫn còn hiện diện chung quanh, và nếu chúng tôi muốn di tản thương binh và tử sĩ thì chúng tôi phải di chuyển đến một địa điểm khác, nơi có thể lập một bãi đáp cho trực thăng.

Một trực thăng tái tiếp tế nữa bay đến, có các trực thăng võ trang hộ tống. Trực thăng võ trang đánh các sườn dốc chung quanh ngọn đồi trong khi chiếc trực thăng tiếp tế cố lơ lửng một chỗ trên không và thả các thùng đồ xuống.

Ðồ tiếp tế gồm cả thực phẩm hành quân “ration C” và nước uống. Thực phẩm và nước uống được phân phối cho anh em thám kích, và một số để dành cho đại đội 403.

Buổi chiều chuyển dần sang hoàng hôn, và Spooky cũng như phi cơ điều khiển oanh kích phải rời vùng để đổ thêm nhiên liệu. Các máy bay phản lực đã rời vùng trước rồi. Vị đại đội trưởng thám kích nhận được liên lạc từ đại đội 403 qua máy truyền tin, yêu cầu ngưng mọi tác xạ vì họ đang di chuyển đến gần vị trí. Chỉ trong phút chốc, dưới chân đồi phía của tôi có những tiếng la lớn và tiếp theo là những tiếng reo mừng của anh em thám kích trên đồi. Ðại đội 403 đã đến. Ðại đội 403 di chuyển theo đội hình hàng dọc và tiến thẳng vào phòng tuyến trên đồi, khiêng theo thương binh và tử sĩ trong những chiếc cáng dã chiến tự chế. Số tổn thất của đại đội 403 là tám chết và mười lăm bị thương. Số người bị thương và chết “mới đến” được tập trung chung với số chết và bị thuơng của đại đội 406. Nước, thực phẩm và đạn dược còn lại được phân chia cho anh em thám kích của đại đội 403 ngay khi họ di chuyển vào vị trí phòng thủ ở mặt phía tây và bắc của vòng đai. Các tay súng của đại đội 406 thám kích thì chiếm lĩnh các vị trí mặt phía đông và nam của vòng đai. Hoàng hôn lui dần vào màn đêm và đạn cối của quân Bắc Viẽt lại rót vào vị trí. Tôi điều khiển pháo binh bắn vào các điểm nghi ngờ là vị trí đặt súng cối của địch. Mức độ pháo kích giảm, nhưng những quả đạn cối lẻ tẻ cứ tiếp tục rơi xuống vị trí chúng tôi suốt đêm. Chúng tôi cũng bị vài trận đánh thăm dò nhỏ bằng bộ binh và một trận tấn công lớn hơn ở mặt phía bắc của vòng đai, nhưng lực lượng thám kích đã đẩy lui. Ðã đến lúc nên rút khỏi nơi nầy.

Trận thử lửa của chúng tôi với trung đoàn 24 chính qui Bắc Việt đã là điều kiện xúc tác cho một cuộc đọ sức qui mô hơn, lôi cuốn các lực lượng Nam Việt Nam và Mỹ vào chiến trường. Hai tiểu đoàn của Trung Ðoàn 42 QLVNCH, một tiểu đoàn của Sư Ðoàn 4 bộ binh Mỹ và một thành phần của một đơn vị Biệt Ðộng Quân QLVNCH đã được điều động tham chiến với quân Bắc Việt. Ðơn vị bạn gần chúng tôi nhất là bộ phận tiền phương của Trung Ðoàn 42 QLVNCH. Bầu trời dường như rợp bóng trực thăng và máy bay các loại yểm trợ các đơn vị nầy. Thật vững bụng khi biết có lực lượng bạn đang hiện diện đâu đó, đang mở đường tiến về phía chúng tôi.

Ðêm trôi qua yên tĩnh, chỉ một quả đạn cối duy nhất pháo vào vị trí, và hầu hết thám kích đã có một giấc ngủ ngon lành, kể cả tôi. Tôi đã quá mệt mỏi, cả thể xác và tinh thần, và rất mừng mình còn sống.

Trời vừa sáng, chúng tôi nhận được kế hoạch rút khỏi nơi nầy và di chuyển đến vị trí một đơn vị bạn. Phòng hành quân ước lượng bộ phận tiền phương của Trung Ðoàn 42 QLVNCH ở cách xa khoảng hai nghìn yards về phía tây. Theo kế hoạch, hai đại đội thám kích sẽ di chuyển về hướng đơn vị bạn dưới màn hỏa lực pháo binh yểm trợ rót chung quanh. Trực thăng võ trang sẽ bắn phá phía trước trong khi chúng tôi di chuyển. Các phi cơ phản lực sẽ đánh ngay trên ngọn đồi sau khi chúng tôi rời đồi, và sẵn sàng ứng trực khi chúng tôi cần. Chắc chắn là địch đang có mặt trên lộ trình ấn định trong kế hoạch, bởi vì đơn vị bạn mà chúng tôi sắp di chuyển đến đang bị quân Bắc Việt đánh phá dữ dội. Trước khi chúng tôi rời bỏ vị trí, một trực thăng tản thương đã cố bay lơ lửng tại chỗ trên không để tiếp nhận thương binh nhưng lại cũng bị hỏa lực súng nhỏ bắn rất “rát” đuổi đi. Quân Bắc Việt vẫn bám trụ, không bỏ cuộc.

Vào khoảng giữa trưa thì chúng tôi bắt đầu rút khỏi vị trí, Ðại Ðội 406 đi đầu, cách một quãng đến Ðại Ðội 403 làm thành phần yểm trợ. Mỗi người lính còn khoẻ mạnh trong Ðại đội 406 đều khiêng cáng tải thương tự chế. Chúng tôi mang theo tất cả đồng đội chết và bị thương. Tôi cõng một anh lính thám kích trẻ bị đạn ở bụng dưới, hai chân và tay anh ta phải buộc dây phía trước người tôi, để tôi rãnh hai tay sử dụng máy truyền tin và khẩu súng khi cần. Ngay giây phút vừa rời vị trí thì số anh em thám kích đã ra khỏi vòng đai liền bị hỏa lực súng nhỏ của quân Bắc Việt bắn rất rát. Tôi tiến lên và gọi pháo binh tác xạ vào quân Bắc Việt. Trận đọ súng diễn ra khoảng hai mươi đến ba mươi phút, và quân Bắc Việt bỏ chạy. Chúng tôi lại nhận lãnh thêm thương binh phải săn sóc. Màn lưới hỏa lực pháo binh yểm trợ lại được điều chỉnh về phía trước đội hình thám kích và cuộc rút quân tiếp tục. Khi phân nửa lực lượng thám kích đã ra khỏi vị trí thì quân Bắc Việt bắt đầu bắn súng cối và hỏa tiễn B40 vào chúng tôi. Trực thăng võ trang chiếu cố các vị trí súng cối, và đoàn quân lại tiếp tục di chuyển. Cả hai đại đội rời khỏi ngọn đồi, rời khỏi cái đường đỉnh cụt ngủn, và tiếp tục hướng về tây, về phía an toàn. Bức màn hỏa lực thép được điều chỉnh về hai bên hông và đằng sau đội hình chúng tôi và các phản lực cơ đánh cái đường đỉnh cụt ngủn sau khi quan sát thấy quân Bắc Việt xuất hiện trên ngọn đồi.

Chúng tôi di chuyển chậm, địa thế hiểm trở, hỏa lực pháo binh yểm trợ hình như đang cầm chân quân Bắc Việt ở quãng xa. Anh thám kích đáng thương tôi cõng cứ rên lên khe khẽ mỗi khi tôi vấp nhẹ một cái. Tôi cảm được vết thương anh ta đang rỉ máu, do cảm giác nước ấm trên lưng mình. Tôi tìm đến một y tá và anh ta nói chẳng giúp gì được cho đến khi gặp đơn vị bạn.

Chúng tôi có thể đoán mình đang tiến gần đến vị trí đơn vị bạn, vì tiếng súng giao tranh với quân Bắc Việt nghe càng lúc càng lớn. Vào khoảng xế trưa quân Bắc Việt khai hỏa bằng súng nhỏ vào đoàn quân hàng dọc của chúng tôi, từ phía trước và hông phía nam. Thám kích bắn trả và tôi điều chỉnh hỏa lực pháo binh về phía trước và sườn phía nam để đối phó với cuộc tấn công của quân Bắc Việt. Trong vòng mấy phút cuộc giao tranh chấm dứt và chúng tôi tiếp tục di chuyển.

Chúng tôi được tin trận chiến dữ dội đơn vị bạn đang quần thảo với địch đã lắng xuống mức độ bắn tỉa lẻ tẻ. Chúng tôi gọi máy truyền tin liên lạc với các cố vấn của đơn vị tiền phuơng Trung Ðoàn 42 QLVNCH và với vị sĩ quan chỉ huy đơn vị tiền phương, thông báo họ chúng tôi đang đến gần và yêu cầu tác xạ thận trọng kẻo bắn lầm. Khoảng ba mươi phút sau, các thám kích đi đầu đội hình chúng tôi đã tiếp xúc được với lính của Trung Ðoàn 42 và chúng tôi từ từ di chuyển vào vòng đai phòng thủ của họ. Chúng tôi tiếp tục đi cho đến khi gặp đại đội tổng hành dinh của tiểu đoàn đang tham chiến của Trung Ðoàn 42 QLVNCH.

Vị trí nầy có một bãi đáp, vì vậy chúng tôi đặt các thương binh và tử sĩ gần bãi đáp để các y tá của thám kích và của đại đội tổng hành dinh săn sóc các thương binh. Anh thám kích trẻ tôi cõng trên lưng vẫn còn sống và mỉm cười với tôi khi tôi đặt anh ta nằm xuống.

Trực thăng tản thương đã được yêu cầu và sẽ đáp xuống trong chốc lát, trước là di tản thương binh, và sau đó di tản tử thi. Một trực thăng đáp xuống, chở thực phẩm và nước uống cho thám kích, và đạn dược cho tiểu đoàn của Trung Ðoàn 42. Khi công tác tản thương hoàn tất, các trực thăng bắt đầu đến để chở thám kích về Kontum. Quý hoá quá, một viên cố vấn của Trung Ðoàn 42 đảm trách công việc liên lạc nầy, trong khi tôi tìm một chỗ ngả lưng nghỉ ngơi. Tôi biết mình bắt đầu sụt sùi thổn thức và người lính thám kích mang máy truyền tin của tôi bước đến bên cạnh và cố gắng an ủi tôi. Tôi nghĩ anh ta hiểu rằng sự căng thẳng của những gì vừa qua cuối cùng đang bộc phát ra, và chúng tôi ôm nhau. Chúng tôi còn sống!

Tôi đàm đạo với vị đại đội trưởng của 406 và anh ta nói 50% đại đội của mình tử thương hay bị thương. Ðại đội 406 lên đường hành quân với quân số 77 người, kể cả hai sĩ quan. Trong tổng số nầy, 19 người đã tử trận và 21 người bị thương. Trong số thương binh, 6 người nữa sớm muộn rồi cũng sẽ ra đi. Ðại đội 403 có 9 tử trận và 17 bị thương. Trong số thương binh, có 3 người trước sau rồi cũng không sống được. Một sự trả giá thật kinh khủng, và tôi cảm thấy áy náy đã không thể làm gì hơn để bảo vệ những con người tuyệt vời nầy, những người lính thám kích của tôi.

Quân Bắc Việt đã trả một giá cực kỳ đắt. Không có cách nào đếm chính xác con số tử vong của họ, nhưng căn cứ vào những gì tôi chứng kiến, phải có từ 250 đến 300 xác chung quanh ngọn đồi và ngay trong vòng đai của chúng tôi. Trên dãy núi lớn và trên các đường tiến sát đến vị trí chúng tôi, còn nhiều tử vong của quân Bắc Việt nữa. Thêm vào đó, quân Bắc Việt hẳn phải nhận lãnh một con số thương binh cực kỳ cao.

Vì trời sắp tối , viên cố vấn của Trung Ðoàn 42 cho tôi biết chiếc trực thăng sắp đến sẽ chở viên cố vấn kia, hai đại đội trưởng thám kích, ba binh sĩ thám kích cuối cùng và tôi về Kontum. Chúng tôi leo lên và chiếc trực thăng cất cao lên trời quay mũi về hướng bắc, đi Kontum. Vị Ðại Ðội Trưởng đại đội 406 thám kích chìa tay ra bắt tay hai chúng tôi và cám ơn đã giúp hầu hết đại đội của ông vượt qua trận chiến, đoạn ông ta quay nhìn những địa hình thoáng qua bên ngoài trực thăng, nỗi buồn hằn rõ trên mặt. Chúng tôi bay trên vùng trời Kontum và đáp xuống một bãi đáp gần hậu cứ của thám kích. Binh sĩ thám kích còn lại của hai đại đội tập họp đội hình chỉnh tề đứng chờ, thân nhân thì trông chờ chồng, cha. Một số bà vợ của những tử sĩ cũng đứng chờ và khóc than to lên vì mất người thân. Một nhóm khác gồm vợ của các chiến sĩ mà xác thân còn nằm lại trên rặng núi lớn. Những tiếng than khóc của họ nghe thật kinh hồn và triền miên. Nguyện vọng của họ là làm sao lấy được và chôn cất thi thể chồng họ. Suốt mấy ngày liền họ tiếp tục than khóc và van xin bên ngoài bộ chỉ huy Ðại Ðội 406.

Vị đại đội trưởng nói trước hàng quân những lời đầy khích lệ và rồi cho đại đội giải tán. Thật đáng buồn, vị Ðại Ðội Trưởng đại đội 406 bị vây bủa bởi vợ con của những người lính thám kích mà xác thân còn nằm lại trên dãy núi lớn. Viên cố vấn kia và tôi bước vào xe jeep của chúng tôi, ném vật dụng hành quân vào phía sau xe và lái xe về doanh trại của MACV.

Mọi sự đã kết thúc!

Charles Schwiderski 11/25/07

Like this:

Cho những người bạn thám kích của chúng tôi

Có lẽ đây là lần đầu qua văn chương Miền Nam thời chiến, hai nhà thơ Mỹ Việt gặp nhau ở cùng chung một màu áo binh chủng. Một người nguyên là cố vấn đại đội, và một người nguyên là một trung đội trưởng. Họ không hẹn mà gặp, không phải ở trên quả đất này, mà ở trên văn chương. Họ cùng những giọt lệ thổn thức khi nhớ về đồng đội, về những người bạn thám kích QLVNCH của họ – những người lính không bao giờ biết nón sắt, áo giáp. Họ đội mũ rừng, trang bị súng nhẹ, gan dạ, quả cảm, luôn luôn đi đầu trong các cuộc hành quân tìm dấu địch. Và dĩ nhiên là họ chết trước.

Chúng tôi trân trọng giới thiệu bài thơ Cho những người bạn thám kích của tôi ( For my Scouts ) và Những bóng hình ( Shapes ) của nhà thơ Charles Schwiderski cùng bài thơ Trung Đội của Trần Hoài Thư.

* Nhà thơ Charles Schwiderski nguyên cố vấn cho Thám Kích Cao Nguyên, Biệt Khu 24 QLVNCH, Kontum từ 1967 đến 1968.

Trang nhà của tác giả:

http://www.8thwood.com/chuck_schwiderski.htm

* Trần Hoài Thư nguyên là một trung đội trưởng thám kích trong thời gian gần 4 năm (từ 8/1966 đến 6/1970).

Charles Schwiderski
Cho những người bạn thám kích của tôi

Tôi xây trong tim tôi
ngôi nhà cho những người bạn thám kích
Mỗi người một căn phòng cố định
Dù tất cả cửa sổ
Đều phủ màn đen
Và chủ phòng không bao giờ trở lại
Nỗi đau là của tôi … và tôi là một người ích kỷ
Tôi say sưa gom góp kỷ niệm về các bạn
Mỗi phòng chất chứa tinh hoa của chủ phòng
… của những chuỗi ngày vui buồn hay may rủi
của tất cả mọi điều từ trước đến nay
Khi cô đơn tôi có thể vén màn
và các bạn sống lại cười vui trở lại
Nhiều bạn thám kích của tôi đã sống trong ngôi nhà nầy
rất lâu … với hình con Báo Đen
sơn trên cửa phòng của họ
Bên trong tôi vẫn nghe giọng cười
và nước mắt tôi sa xuống trên nền nhà.

(THT phỏng dịch)

Những Bóng Hình

LTS: Bài thơ này được trích từ hồi ký chiến trường Hi Ro Bu kể lại cuộc hành quân của hai đại đội thám kích QLVNCH ở vùng rừng núi Hi Ro Bu. Chúng tôi xin được cám ơn nhà văn Hà Kỳ Lam đã bỏ công giúp chúng tôi chuyển ngữ bài thơ này..,

Chúa ơi, bọn chúng lại đến!
Tôi hãi quá… tôi không muốn chết!
Tôi nhìn qua miệng hố và thấy
Những bóng hình xám xịt chơi vơi bên dưới
Những bóng hình chạy từ gốc cây đến gốc cây
Những bóng hình tiến lên dốc đồi
Những bóng hình di động để giết tôi
Những bóng hình di động để cướp đi mộng đẹp của đời tôi
Tôi giương súng nhắm một bóng hình chơi vơi bên dưới
Giờ gần hơn… giờ rõ hơn
Tôi bóp cò và một hình hài ngã xuống
Miệng há hốc như nói với chính mình
Những bóng hình khác rõ hơn đang tiến đến tôi
Bắn tôi
Ném lựu đạn vào tôi
Tiến đến tìm tôi
Tôi thấy khói từ nóng súng của chúng
Cảm được viên đạn lướt qua gần sát thân mình
Cảm được chấn động của lựu đạn chúng nổ
Nghe tiếng rít của hỏa tiễn bay qua
Tiếng ré của kèn đồng chúng xung trận
Âm thanh xé màn nhỉ của tiếng tu huýt
Tôi hét lên và run vì sợ
Nhưng cẩn thận ngắm súng vào những bóng hình bên dưới
Siết cò súng hết phát nầy đến phát khác
Không thể để trượt… gần hết đạn rồi
Không thể để trượt… không được phí một viên
Những bóng hình tràn ngập khắp nơi
Những bóng hình sao nhiều đến thế
Xin Chúa giúp con
Tôi siết cò súng nhưng không gì xãy ra
Chúa ơi, con hết đạn rồi!!!
Tôi rút băng đạn ra khỏi súng và với lấy một băng khác
Tôi sục sạo nhưng không còn gì… hốt hoảng, hốt hoảng, hốt hoảng
Tôi tìm được một băng đạn… băng cuối, và lắp vào súng
Ngắm và bắn, ngắm và bắn và bắn và bắn
Thêm nhiều bóng hình ngã gục
Xác thân nằm mọi nẻo
Chết chóc đang vây quanh tôi

Những bóng hình đang xông tới
Những bóng hình hiện diện khắp nơi
Những bóng hình đang xáp đến bên tôi

Những bóng hình nhiều quá đi thôi
Xin hãy giúp tôi!!

(Hà Kỳ Lam chuyển ngữ)

Trần Hoài Thư

Trung đội

Băng đồng, băng đồng, đêm hành quân
Người đi ngoi ngóp, nước mênh mông
Về đây Bình Định ma thiên lãnh,
Mỗi bước đi rờn rợn âm hồn

Trung đội những thằng trai tứ chiếng
Những thằng bỏ lại tuổi thanh xuân
Diều hâu bôi mặt hù ma quỷ
Thuở đất trời bày đặt nhiễu nhương

Đêm của diều hâu về xứ khổ
Poncho phơ phất gió hồn oan
Trên vai cấp số hai lần đạn
Không một vì sao để chỉ đường

Mưa lạnh thèm tu hơi rượu đế
Để quên tim nhảy nhịp lo âu
Giơ tay vuốt mặt lau tròng kính
Giờ G, giờ G sao quá lâu

Thì đi, đột kích trong lòng địch
Chụm tiếp nồi cơm hộ Bắc quân
Cơm nóng thầy trò ăn đỡ đói
Ha hả cười, cơm của nhân dân

Trung đội cả tuần đêm không ngủ
Lương khô đã hết, chờ trực thăng
Hành quân một tháng trên An Lão
Một tháng trời mưa thúi chiến trường

Pháo chụp người gào khan cả họng
Máy sôi tắt nghẹn chờ phi tuần
Miểng thép đâm xiên, thằng bạn gục
Hỏa châu vàng thoi thóp triền sơn

Địch vây xiết chặt bộ tiền phương
Quân băng đường máu về Bồng Sơn
Qua kênh, sương muối mờ tre bụi
Thánh giá chơ vơ nóc giáo đường

Nước nguồn đổ xuống ngày binh lửa
Những xác nào đã thúi hôm qua
Ai bạn ai thù sao quá thảm
Trên một dòng cuồn cuộn oan gia

Con sông chia cắt bờ bi hận
Cột khói còn lưu luyến chiến trường
Có ai chạy loạn bơi xuồng kể
Một thước đi, xác ngập thước đường

Cây cầu sắt bắc qua tử địa
Bên kia sông ta chiếm rừng dừa
Đêm bỗng nghe quạ bầy động ổ
Gọi ran trời kinh động sao khuya

Lũ quạ trốn đi từ dạo ấy
Để giờ đây kêu động rừng phong
Quạ gọi bầy tháng năm tháng bảy
Sao ta gọi bầy thăm thẳm mù tăm

Trung đội ta những thằng giữ đất
Từ Qui Nhơn, Phù Cát, Phù Ly
Ra Tam Quan qua rừng An Lão
Từ Kỳ Sơn, Phước Lý, An Khê

Đồng đội ta những người đã chết
Những Vọng, Nga, Nai, Bình Lò Heo
Những Chấn, Hảo, Sơn, Tài Xóc Dĩa
Đàn diều hâu thảm thiết khóc òa

Lịch sử cũng vô tình thế đó
Người qua sông không nhớ con đò
Những người chết không còn nhắm mắt
Người sống giờ như những hồn ma

Bóng Tháp (hồi ức văn chương)

Không thể ngờ một ngày tôi lại có mặt giữa ba ngọn tháp buồn thiên cổ để cảm nhận thế nào là dấu vết của Điêu Tàn trong thơ Chế Lan Viên. Có lẽ tôi may mắn hơn nhà thơ họ Chế, bởi vì ông chỉ nhìn tháp mà làm thơ, còn tôi, tôi sống với tháp, tôi ngủ trong lòng tháp, tôi được tháp che chở bảo bọc mà chắc chắn trong thời bình, tôi khó có thể có được cơ hội.

Đó là đồi Bà Gi, còn gọi là Tháp Bánh Ích,  hậu cứ của đại đội 405 thám kích thuộc sư đoàn 22 BB, gồm một chùm ba ngọn.  Phía đông dưới triền đồi  là Tu Viện Nguyên Thiều, kế là Bộ Tư Lênh Sư đoàn 22 BB.  Phía Bắc là An Nhơn, Đập Đá. Phía Tây là cầu Bà Gi. Trên tháp có thể nhìn cả một vùng Tuy Phước, Gò Bồi, An Nhơn, và một giòng sông Côn uốn dưới chân đồi.  Theo như người địa phương cho biết, ngọn tháp cao nhất là tháp Vàng. Ngọn ở lưng chừng đồi là tháp Bạc. Và ngọn ở dưới thấp nhất là tháp Đồng. Tháp Vàng là nơi đặt đài rada của quân dội Mỹ. Tháp Đồng là kho chứa đạn dược của đơn vị tôi. Chỉ có tháp Bạc là trống trải, nằm ngay ở bên sân doanh trại, ngay ở cổng gát của đơn vị.

Thật không thể ngờ có một ngày tôi lại nương nhờ dưới bóng ba ngọn tháp này. Có lẽ chúng là mái nhà của tôi cũng nên. Tôi đã nương dưới bóng tháp ấy suốt gần 4  năm (tháng 9-1966 – tháng 7 -1970) .Bốn năm phải là quá quen thuộc, quá gần gũi. Bốn  năm, tháp đã chứng kiến  những ngày chúng tôi xuống đồi, lên đồi, những lần hành quân xa, những buổi trở về, thấy bóng tháp ẩn hiện từ xa, để biết mình đã về lại mái nhà xưa. Tháp không còn là những tầng gạch cũ gắn chặt ngàn năm một cách vô tri nữa. Mà đối với tôi, chúng có linh hồn. Chúng thiêng liêng. Chúng không phải là là một dấu vết của sự hưng phế của một triều đại,  một cơ đồ, nhưng chúng là một cõi mồ của lịch sử. Mà có lẽ, đâu đó, trong đêm,  gió hú than là lời hú than ai oán của một dân tộc bị diệt vong…

Cái ý niệm về tôn giáo siêu hình càng mạnh, khi mắt tôi chứng kiến cảnh sét đánh ngay vào ngọn tháp Vàng. Nghe nói, có  người lính Mỹ bị thương hay chết.  Có lẽ họ mang ô uế vào tháp chăng. Ngoài ra, những người lính thâm niên trong đơn vị  vẫn hay kể là  trước đây, cứ mỗi lần ông dơn vị trưởng mang gái lên đồi qua đêm , thì thế nào, sau đó, đơn vị  cũng gặp rũi không ít thì nhiều.

Từ sự tin tưởng có tính cách tôn giáo ấy, cứ mỗi lần đơn vị xuống đồi để làm những chuyến tăng phái, hay đột kích, tiếp viện, hay thám sát, tôi vẫn đứng dưới tháp mà cầu nguyện. Như ngày nào tôi đã lên tháp Bà, ở Nha Trang để cầu khẩn cho mẹ tôi khỏi bị khổ nữa.,

Chính vì nỗi tin tưởng ấy, tôi không thể chấp nhận việc mang ô uế đến với tháp. Là người lính, tôi không thể làm gì hơn. Nhưng  là nhà văn, thì tôi có quyền. Tôi đã viết  truyện Bóng Tháp, lấy từ chất liệu sét đánh lên đài ra đa như là một sự trừng phạt của đấng quyền năng. Truyện đăng hai kỳ trên Bách Khoa. Sở kiểm duyệt đã kết tội bài viết có lợi cho địch là bêu xấu quân đội đồng minh. Chỉ tội nghiệp cho ông Lê Ngộ Châu, phải khổ lắm, mới mang được về tòa sọan vài trăm tập và bôi đen một phần của bài văn.

(Có điều hết sức ngạc nhiên là thư viện Cornell đã có hai số báo BK này, với toàn bài không bị cắt xén)

oOo

Tôi vẫn còn nhớ, hình như vào khoảng năm 1969 thì phải, Bắc quân  mang một lực lượng cấp tiểu đoàn tấn công vào thị trấn Đập Đá, cách đồi Bà Gi khoảng vài cây số về phía Bắc. Trong trận này, binh chủng thám kích được sự tiếp trợ của sư đoàn Mãnh hổ Đại Hàn đã tạo một chiến thắng lớn.

Lính phe Bắc chết nằm la liệt ở ruộng đồng gần Đập Đá. Đến nỗi sau trận đánh, xe ủi của quân đội Đại Hàn  đã phải đào nguyên cả cái hố lớn và sâu để lấp chôn xác họ. Tôi nghe nói trên cả trăm người chết.

Và hố này gần một tháp chàm gần khu vực giao tranh.

Có  hai người hạ sĩ quan mới ra trường đã tử trận. Một cái tang đau cho gia đình thám kích.

Chuyện đào hố chôn xác người đã làm trí óc tôi lóe lên một đề tài về một sự tái diễn của lịch sử. Và cái nhân quả trong triết lý nhà Phật.

Nhưng chưa có dịp để hoàn thành ý nghĩ này.

Đợi đến  một lần dừng quân chờ xe sư đoàn đến rước về hậu cứ, tôi mới thật sự kê giấy để viết dưới ánh đèn pin quân đội. Đêm ấy, chúng tôi nghỉ chân bên một ngọn tháp sau một cuộc hành quân gian khổ. Điêu Tàn của dân Hời bây giờ nhường lại Điêu tàn của dân tộc tôi.  Đây là truyện thứ hai tôi viết về tháp, với tựa đề Đêm Chiêm Thành.

Ðêm Chiêm Thành

 

Chúng tôi đã bắt đầu đốt lên những bếp lửa đầu tiên của một đêm về muộn.

Sau một ngày lội đến quỵ cả gối, tắm mình trong một dòng sông hẹp và sâu, vượt qua những xóm làng hoang vu không một bóng người, và thèm ghê gớm một chỗ nằm, một giếng nước mát, một ngọn đèn dầu, và một bữa cơm nóng sốt, bây giờ chúng tôi lại ngồi ở đây, trước ngọn cổ tháp. Lệnh cho biết, lát nữa, một đoàn xe của tiểu khu – đơn vị mà chúng tôi tăng phái – sẽ đến đón những đứa con của chiến trường trở về. Tin trên, được truyền từ một người lính truyền tin của bộ chỉ huy, đã như một tín hiệu rực rỡ nhất, vui mừng nhất. Không ai bảo ai, ngả lưng trên nền đất cỏ, tháo ba lô và súng đạn trên mình, và tụm năm, tụm ba, đốt thuốc, ngồi vây quanh những bếp lửa hồng.

Chiều đã tan biến từ lúc nào, bây giờ màn đêm đã dần buông, bằng một đôi cánh mỏng nhẹ. Hơi gió đã nghe thở xào xạc. Một vì sao đã hiện lên trên đỉnh tháp, xa vắng như con mắt tình nhân. Những gợn mây hồng ở cuối chân trời vẫn le lói chút đỉnh để kéo chút hơi ngày. Và đâu đây là tiếng vạc cầm canh đã vang lên từ cánh đồng ngập nước. Lạnh quá đi. Một người lính đã thốt lên và run rẩy. Nước bùn, nước sông, pha lẫn mồ hôi của một ngày đã còn dầm dề trên những bộ quần áo trận. Ðó là kết quả của một ngày mệt mỏi và đầy căng thẳng. Buổi sáng với tuyến xuất phát từ chiếc cầu Bình Khê, và đền thờ của vua Tây Sơn, và buổi tối là ngọn tháp Chàm này. Từ tuyến xuất phát, chúng tôi được lệnh cùng một đơn vị bạn, tiếp tục lục soát một chiều dài non hai chục cây số. Chúng tôi phải chiếm lần lượt những ngôi làng bỏ hoang, và có thể, di tản một số dân còn lại về vùng an ninh. Chúng tôi đã vô sự. Ðiều này, chắc làm mấy ông sĩ quan cao cấp không bằng lòng tí nào. Nhưng đối với chúng tôi, chúng tôi chỉ mong như thế. Vô sự, hai chữ ấy như một sức hấp dẫn mãnh liệt. Ðời chiến binh chỉ mong bao nhiêu. Nhưng mấy ai thoát được trên trăm ngàn cuộc ra quân. Vì thế, lần dừng quân chiều nay, có lẽ chúng tôi là những kẻ sung sướng nhất. Một người đã huýt sáo nho nhỏ. Một người cố lục dưới đáy ba lô, tìm gói lương khô cuối cùng để chống cơn đói. Một người đang cởi áo hơ trên ngọn lửa. Trong thinh không màu sậm tối, những cánh dơi từ trong lòng tháp vụt bay ra, lượn vờn trên đầu đám quân. Những tiếng reo dòn của lửa thật êm ái. Và chúng tôi mong vô cùng được nghe lại tiếng xe mười bánh bên đường. Người lính già thì mong chờ về gặp đàn cháu nội ngoại, hay hớp rượu thuốc. Người lính trẻ thì mong gặp người yêu trông đợi. Còn tôi, thú thật, thèm được chắp đôi cánh của một loài ó bay về thành phố. Rồi một góc tối trong một quán cà phê, đầy âm nhạc, đầy bạn hữu, đầy những sợi khói nồng nàn, lãng đãng của ngày thanh xuân. Rồi rượu, đàn bà… Tôi đang dệt những cơn mơ rực rỡ ấy trong một buổi tối đầy bình an này.

oOo

Một tiếng nói đã cất lên giữa những đứa con ăn sương nằm đất: “Ðây là thành Ðồ Bàn. Tháp trước mặt là tháp Cảnh Tiên hay còn gọi là Tháp Ðồng đấy”.

Một giọng nói khác phụ vào: “Thì ra bọn mình đang đóng đô trên kinh đô Chiêm Thành “. “Vâng, tháp này là nơi mà vua Chế bồng Nga đóng đô. Tôi nghe một ông già trong vùng kể lại, đây là nơi vua Trần đã một lần chiếm đóng và tàn phá khủng khiếp …”

Tôi vẫn nằm dựa lưng vào ba lô, lắng nghe những lời trao đổi. Giọng nói buồn buồn của người lính ngồi bên cạnh đã làm tôi xúc động. Thì ra, bãi cỏ xanh mướt này, từng là một bãi chiến trường. Tôi đã đọc trong sách vở mô tả lại trận đánh ghê khiếp trong lần vua Trần viễn chinh. Vua Trần Duệ Tông đã bị phơi xác khi tìm cách thúc đoàn quân chiếm thành Ðồ Bàn. Rồi những cuộc viễn chinh sau đó, sau khi vua Chế Bồng Nga qua đời, đã mỗi lúc mỗi xô đuổi người Chiêm Thành chạy về phía Nam. Thành Ðồ Bàn bị thất thủ. Kinh đô Chiêm bị thiêu hủy. Giờ đây là những phế tích đau buồn bằng mấy ngọn tháp cô quạnh trong dòng vô tình của lịch sử. Chúng như biểu tượng một thời của đền đài cung điện, của xe ngựa dập dìu. Chúng có mặt như là những hồn ma cô đơn nhất.

Một người bạn đã xin tôi một điếu thuốc lá đen. Tôi cười: bao thuốc xanh của tôi đã bị ướt nhão nhoẹt khi lội qua sông. Gió đã bắt đầu lạnh hơn. Những ngọn lửa đã bắt đầu yếu dần. Trăng đã lên cao, nằm lẻ loi trên một chòm cây khẳng khiu. Tiếng vạc lại nổi lên, đều đều từ phía đồng ruộng. Tôi vẫn nằm yên, lưng dựa vào balô, và tâm hồn tôi trải rộng như bóng đêm đang phủ. Có tiếng chửi thề: “Bộ xe để đưa rước ông bà lớn, các cô các cậu lớn hết sao bây giờ vẫn chưa thấy ló mặt đến”. Một giọng khác phụ họa: “Chắc mấy tay bán hết xăng rồi, giờ này xe nằm ụ”. Rồi tiếng ho khan nổi lên trong hàng quân, cùng tiếng cười la từ phía ban chỉ huy. Có lẽ, trong tâm trí của mỗi đứa con chiến trường đều hiển hiện những ngọn đèn thân yêu nhất của mình. Và vô tình giữa cõi trăng sáng trong vắt, tôi bỗng nhận ra một tấm bảng nổi lên trên một gò đất xanh um. Tôi đến nơi và đọc: “Mồ chôn tập thể địch quân”. Tôi hỏi người bạn, nguyên là dân địa phương. Anh ta trả lời: “Mồ chôn của cả tiểu đoàn V.C đấy. Cậu không nhớ lần bọn chúng về đánh Ðập Ðá, bị vây tứ phía, không còn để lọt một trự sao?” “Vâng, tôi nhớ ra rồi. Ðại Hàn nằm phía Bắc. Phía Ðông Nam là mình. Phía Tây là trung đoàn. Vòng vây càng lúc càng xiết chặt. Ðịch không một ai chạy thoát. Trận đánh suốt cả tuần. Nhưng tôi không thể ngờ, tại sao họ lại đào ngay tại đây để chôn xác người. Bi thiết quá” “Tại sao là bi thiết. Thì chôn ở đâu bây giờ? Cả trăm mạng” “Tôi muốn nói cái oan khiên của lịch sử. Mấy trăm năm trước, bao nhiêu người chắc đã chết tại nơi này. Và mấy trăm năm sau, lại thêm bao nhiêu xác người khác nữa nằm tiếp thêm… Họ đòi nợ nhau. Và cuối cùng Bắc Nam Chiêm Thành cùng nằm chung dưới một gò huyệt”.

Giữa lúc ấy, từ phía xa, mờ ẩn một ánh đèn bão. ánh đèn càng lúc càng tiến lại gần phía chúng tôi. Chừng như người mang đèn không hề biết sự có mặt của đám con chiến trường. Giọng quát của người lính canh: “Ai đó đứng lại !” Ngọn đèn đứng yên. Tiếng nói mất còn trong sợ hãi vọng lại: “Tôi đây, xin các ông tha cho tôi, bởi tôi không biết…” Dưới ánh trăng sáng vằng vặc, tôi thấy lờ mờ hình dáng của một bà lão. Tiếng cằn nhằn của người lính tiếp tục vang lên: “Bà già quả gan thật. Bà không biết giờ này giới nghiêm hay sao? Một mình bà lại đến khu vực này. Bà đi tiếp tế cho VC hay sao?” “Bẫm ông, tôi già rồi” “Bộ già không phải là VC sao?” Tôi đến bên bà lão. Bây giờ tôi mới thấy rõ hơn. Tóc bà bạc phơ. Gương mặt nhăn nhúm lại. Tôi bắt gặp bà mang một gói vải. Tôi nói lính lục soát. Kinh nghiệm cho chúng tôi biết đa số những người dân trong vùng đều có chồng con nhảy núi, và đêm đêm họ hay mang đồ tiếp tế. Có thể là thuốc tây, áo quần, hay lương khô. Người lính mở gói đồ. Một bó nhang, giấy vàng bạc, một nải chuối…Chỉ có bấy nhiêu. Tim tôi chợt nhói. Vâng, tôi đã hiểu. Hiểu hơn ai hết, vì chính mẹ tôi cũng từng làm như vậy trong những đêm xa xưa, sau khi anh tôi vượt sông cái. Bà đã dám lặn lội đến bãi chiến để thắp nén nhang, đốt vàng bạc, với niềm tin là hương hồn của người chết được siêu thoát, không còn phải kêu gào thảm thiết giữa đàn âm binh chết trận. Tôi hỏi bà lão: “Chắc ngoại có thân nhân chết và bị chôn dập dưới hố phải không?” Bà lão ú ớ. Tôi nói tiếp: “Cháu không làm khó dễ gì ngoại đâu. Bởi mẹ cháu cũng thế, hầu hết những người mẹ có con chết trận đều như thế.” Bà lão tự nhiên òa khóc: “Ðêm nay rằm tôi không thể để nó lạnh lẽo dưới đất. Tôi mong nó lên hưởng chút hương đèn…” “Dạ, ngoại nói đúng. Khi chết rồi ai cũng như ai, không còn là ngụy cũng không còn là VC, không còn Bắc không còn Nam. Thưa ngoại, xin ngoại cho con một cây nhang, để con cùng cầu cho anh ấy, nghe ngoại.” Tôi nói mà lòng tôi ràn rụa.

.

Vượt sông

Credit: AP

Không đò thuyền qua sông
Lệnh ban: quân phải lội
Những thằng lính cởi trần
poncho: bè dã chiến

Mặt trời nằm chênh chếch
Nắng dát vàng một giòng
Giữa trường giang mênh mông
Người và phao hì hụp

Bên kia bờ  bí mật
Hàng tre cúi xuống nhìn
Hỡi tên địch đang rình
Chờ ta lên hãy bắn

Kẻo ta thằng thám kích
Lại chết thành ma da
Đêm bến nước gầm phà
Chắc là hồn lạnh lắm…

Trần Hoài Thư

Sao chổi

truyện thời chiến của Trần Hoài Thư


Truyện này được trích từ phần hai của truyện ngắn Sao Chổi đăng 2 kỳ trên tạp chí Nghiên Cứu Văn Học số 8-9 năm 1969 (linh mục Thanh Lãng chủ nhiệm).  Truyện lấy bối cảnh và chất liệu từ một cuộc đóng quân đêm  của một đại đội thám kích tại một ngôi ấp ở dưới chân núi, để  chuẩn bị cho cuộc đột kích hừng đông trên ngọn đồi Răng Beo.
Để có truyện này, tác giả thành thật cám ơn người bạn ẩn danh ở trong nước  đã cố công sưu tầm và đánh máy lại một đứa con tinh thần mà chúng tôi ngỡ sẽ không bao giờ thấy lại nó nữa… (THT)


…Nai soi lá thư hồng của người vợ dưới ánh trăng, đọc như thuộc lòng

 Ông xã của em,
Bây giờ là mười hai giờ đêm. Em không ngủ được. Em trở dậy thắp đèn viết thư cho anh.
Anh yêu,
Anh xa em như vậy đã nửa tháng. Tại sao trời cao không thương xót chúng mình, bắt vợ ở một phương, chồng ở một nẻo. Em đã khóc hết nước mắt, vì thương anh, vì tủi thân em.

đọc tiếp

Đôi mắt người Sơn Tây

Một người bạn trẻ ở VN đã gởi tặng tôi một món quà Tết. Đó là truyện ngắn Đôi Mắt Người Sơn Tây mà tôi đã viết vào năm 1972, sau khi có hiệp định Ba Lê. Truyện đã đăng trên tạp chí Thời Tập chủ đề nhà thơ Quang Dũng, không nhớ số và ngày phát hành. Người bạn đã bỏ công đánh máy lại.  Xin được cám ơn người bạn xa, rất xa, nhưng cũng rất gần…

Vâng tôi không ngờ, hai mươi năm về sau, cũng có đôi mắt của một người Sơn Tây để mình bồi hồi nhớ lại mấy câu thơ tuyệt vời: ” Em ở  thành Sơn chạy giặc về, Tôi từ chinh chiến cũng ra đi ” hay ” Đôi mắt người Sơn Tây, U uẩn chiều lưu lạc. Buồn viễn xứ khôn khuây…Buồn viễn xứ khôn khuây…”

đọc tiếp

Cuối bờ xa cách

Truyện viết trong thời chiến của Trần Hoài Thư
(trích tạp chí Văn Học số 193 năm 1974)

Cho tới bây giờ, tôi mới thấy rằng tôi là một tên bất nhân nhất thế gian. Một tên vô tâm độc ác. Không, anh đừng vội ngạc nhiên. Cũng đừng thắc mắc tại sao tôi lại tự sỉ vả tôi như thế. Cho dù từ trước tới nay, tôi chưa dám giết một côn trùng, sợ máu như sợ một thứ gì ghê gớm. Hãy bình tâm, cho tôi thú tội. Dù sao đi nữa, anh là kể đến với tôi chiều nay, buồn cùng nỗi buồn to lớn của tôi, thương hại cùng nỗi cô đơn khủng khiếp của tôi.

[đọc tiếp]

Mắt đêm

truyện thởi chiến của Trần Hoài Thư
(trích Văn số 121 ngày 1-1-1969)

Khi tổ tiền sát viên chạy đến gần chiếc cầu gỗ, ẩn dưới bờ mương, tôi bắt đầu cho tổ của trung sĩ Y Bok tiếp tục tiến chiếm gò mả để yểm trợ cho tổ đi sau. Bên kia chiếc cầu gỗ, xóm nhà xác xơ. Vài ngôi nhà ngói bị đổ nát, còn lại những đống gạch vụn, dưới ánh nắng chói chang. Đại-bàng ra lệnh trong máy C.25, hãy dặn các con anh coi chừng, có mãng cầu nhiều lắm đó. Tôi ngoắc tay, ra hiệu người trung đội phó, làm một thủ lệnh sẵn sàng qua cầu.

[đọc tiếp]

Người hạ sĩ nhất

tranh của Thân trọng Minh

…Chàng mở mắt trao tráo nhìn lên bầu trời đen tối. Tiếng dạ trùng vang lên não nuột. Có cả tiếng chim vạc cất lên lẻ loi. Bóng người lính canh mập mờ như pho tượng. Và tiếng gió thì thỉnh thoảng rít lên, hú dài trên cánh đồng. Gió làm mảnh chiếc poncho đập phành phạch.  Có tiếng mớ của một người lính nào đó. Rồi có tiếng gọi đổi phiên.

Đọc tiếp

Diều hâu bỏ núi

Truyện Trần Hoài Thư

Tiếng nổ cạch cạch dội vào vách đá vọng lại như những tiếng báo động dây chuyền. Máy đã bắt được liên lạc với các đứa con bên kia phần đất chết. Giọng nói của người đại đội trưởng địa phương quân nghẹn ngào:”Các đứa con tôi chỉ chờ ngày này. Hôm nay đúng mười ngày”.

Đọc tiếp

Viết lúc 4AM – Tháng ba người cựu lính Mỹ trở lại Kontum.

I will be in Kontum in March. What would be the best way to find any survivors of my Highland Scout Companies???
Tôi sẽ ở Kontum vào tháng ba. Có cách gì tốt nhất để  tìm  những người còn sống sót của các đại  đội thám kích của tôi?

Vâng, chúng ta không có một cái gì ở đấy. Mất mát. Tang thương. Những phận người thất trận. Những dòn thù. Nhưng chúng ta có một kho tàng quí giá ở đó.

đọc tiếp

Viết về Hà Nội: Những cơn mơ cuối năm

Truyện của Trần Hoài Thư

Những ngày cuối năm, Đồng đã sống trong cơn mộng. Trời đã sang lạnh. Cái lạnh dịu dàng như ru anh vào giấc ngủ. Đôi mắt anh lim dim đằng sau ô lưới sắt. Anh như thấy lại một chút gì quen thuộc của quê anh. Tuy trời đã lập đông và những cơn gió giao mùa đã xôn xao những chiếc lá còn sót lại trên cành, nhưng anh cứ tưởng chừng là mùa thu. Miền núi miền Nam đã có một thời tiết khác xa miền Bắc.

Đọc tiếp

Một truyện ngắn cũ: Quán Biên Thùy

(trích từ Truyện từ Bách Khoa – vừa xuất bản)

Hát cho ai. Hát cho người nào. Con chim từ đâu đã bay lại, đậu trên đồi một đêm. Con chim từ đâu đến đây làm tôi nhớ lại ngôi trường Văn Khoa, con đường Nguyễn Du cây xanh bóng mát. Và gió Bạch Đằng. Và nhà thờ Đức Bà. Và ly chanh đường. Uống môi em ngọt.

đọc tiếp

Viết lúc 4AM- Về những trang sách cũ

 Vâng, hãy cho tôi trở về cùng những ngày tháng cũ. Chiếc bè đã đưa tôi vào dòng văn chương không phải đẹp và dịu dàng như một giấc mơ. Mà trái lại, văn chương bấy giờ là văn chương của lửa, lệ, và những gào thét, tra vấn, tử sinh. Văn chương bấy giờ là những ngày đêm trong lòng hỏa ngục, là những vết thương toé máu đớn đau, là tiếng kêu trầm thống của một thế hệ mà, nói theo ý Tolstoi, chỉ những ông già bụng phệ ký giấy tuyên chiến, còn phần chết thì dành cho bọn thanh niên.

đọc tiếp

Vài bài thơ của thời lính thú tìm lại được

Dã Nhân

Uống-rượu-với-duyên ở Thạnh-phú-đông

Buổi sáng buồn tình ta uống rượu
Hình như có nắng ở trên cao
Bạn bè ngồi ghế chưa đông đủ
Không lẽ mời em thế chỗ sao ?

Làm cạn cốc này đi thằng bạn
Để lâu rượu nhạt uống không ngon
Ba năm trôi nổi miền quan ải
Không lẽ mày chưa đủ trí khôn ?
đọc tiếp

Thơ Giáng Sinh miền Nam thời chiến

– Nguyễn văn Ngọc * Lê văn Trung * Nguyễn Đăng Cử * Trần Lê Nguyễn * Trần Văn Sơn  * Lê Thụy Nguyên * Khê Kinh Kha * Hồ Minh Dũng * Huy Tưởng *Nguyễn Đức Lệ Giang * Phạm Cao Hoàng đọc tiếp

Những bài thơ của một thgời làm lính miền Nam (2)

Tháng chạp, làm ăn đêm

Tháng chạp, làm ăn  đêm
Mang lại chiếc áo jacket màu olive
Thêm một trái lựu đạn
Một chiếc bản đồ, và địa bàn
Và khẩu súng trường
Và cả một con tim
Chẳng vui chẳng buồn
trong lòng cabin chiếc xe mười bánh…

đọc tiếp

Thi phẩm Chiến tranh Việt Nam và tôi của Nguyễn Bắc Sơn

LỜI MỞ

Năm 1972, tập thơ Chiến Tranh Việt Nam Và Tôi của của Nguyễn Bắc Sơn được phát hành, gây nên một tiếng vang lớn trong lòng độc giả thời ấy. Những câu thơ như: Mai ta đụng trận ta còn sống. Về ghé Sông Mao phá phách chơi. Tiêu hết nỗi sầu cùng gái điếm. Đốt tiền mua vội một ngày vui. Đã được lưu truyền rộng rãi trong giới văn học cùng với hàng ngũ những người lính trận.
đọc tiếp

%d bloggers like this: