Một số bạn hỏi bài thơ dịch của Tô Thẩm Huy đăng trên Thư Quán Bản Thảo số tháng 10-2019. Chúng tôi xin đăng lại .
Mọi sự trích đăng xin vui lòng ghi nguồn:
Thư Quán Bản Thảo số 86 tháng 10-2019.
Trân trọng cám ơn
THT
TÔ THẨM HUY
Lần Tăm Về Tối
Atalanta in Calydon, (Chorus )
Ngay khi tác phẩm đầu tiên là vở bi kịch thơ Atalanta in Calydon được xuất bản năm 1865 lúc mới 28 tuổi, Algernon Charles Swinburne (1837-1909) đã gây sóng gió trên thi đàn Anh. Người yêu cũng lắm mà kẻ ghét càng thậm tệ. Nhưng không ai có thể phủ nhận tài dùng chữ, gieo vần phù thuỷ của Swinburne. Và khó lòng mà không choáng ngợp trước sự đắm say mãnh liệt của ông với cuộc sống, với cái chết, và sự phi lý của thân phận con người. Atalanta là tên một giai nhân trong thần thoại Hy Lạp, có đôi chân nhanh như cắt, đã cùng với Meleager và các thợ săn khác lùng bắt và giết chết con lợn rừng do nữ thần Artemis gửi đến để phá hoại thành phố Calydon cổ xưa Hy Lạp. Vở kịch, theo đúng truyền thống kịch nghệ Hy Lạp, sen giữa những đối thoại là những đoạn chorus, những điệp khúc ngâm lên từ một góc sân khấu, như những lời vang vọng đến tự cuộc đời. Bài thơ sau đây là một trong những chorus ấy. Tựa do người dịch đặt.
Lần Tăm Về Tối
Quyền hoạ phúc, trời tranh mất cả,
Chút tiện nghi chẳng trả phần ai
Cái quay búng sẵn trên trời,
Mờ mờ nhân ảnh như người đi đêm
(CONK)
Thuở năm tháng cựa mình trong trứng nước
Lúc gọt hình, nặn tượng mống con người
Lấy thời gian trộn sống với khóc cười
Đem buồn tủi nhào tươi cùng day dẳng
Gom hoa rụng những ngày bừng hạ nắng
Gọi khổ đau, men đắng ngậy hương đời
Ập nhớ nhung, đăng đẳng chắt tự trời
Vào cuồng nộ, dậy sôi từ hoả ngục
Mượn một chút ruỗng ruồng, non sức lực
Một chút tình, thoáng chực đã mong manh
Triệu màn đêm: bóng đổ của bình minh
Vời sự sống: bóng hình ven cái chết.
Trổi phù phép, thần linh xoè tay kết
Lôi lệ: mưa, lửa: sét, gió: oan hờn
Vực ngày rơi, vốc nước giọt tuôn tuồn
Từ sau gót chân truồng, hoe năm tháng
Lùa trên biển, bọt bèo nhô sóng dạt
Nhặt mảy may, bụi cát ứa lao lung
Những vị lai, vô sắc, khuyết hình dung
Luồn cửa tử, bập bùng lò chuyển hoá
Lận khinh miệt, yêu đương, vào trí trá
Lúm môi cười, rựng má đã hoen mi
Úm thiên la, vây bủa cõi về, đi
Giằng địa võng, vật ghì, dương, âm thế
Đem nung luyện thành hạo-nhiên linh khí
Xát đoạn trường cho vị sướt thớ gan
Cho thiên thu hiu hắt đứng hiên ngang
Nhìn nắng rụng ngỡ ngàng trên gang tấc.
Hốt giông gió, tung nồm, xô nén bấc
Giới thần linh úm chặt một làn hơi
Thổi vào mồm hình tượng gã con người
Cấy nhưng nhức nhựa đời đau roi rói
Bật môi mắt, vặn giây, căng tiếng nói
Trút xanh hồn, sương khói lẫn tà huy
Máy chân tay, nắn bụng, khoắng nghĩ suy
Thân lao lụng, lưng khuỳ, lòng hướm tội
Gieo ánh sáng, để sợ run bóng tối
Hắt ráng chiều, hòng dỗi giấc ngủ đêm
Chuyên ái tình, chút của để làm tin
Chút cái đẹp, bên thềm ngong nhan sắc.
Môi hé mở, lưỡi dần đau lửa cắt
Lời vừa buông, chất ngất đã đoạ đầy
Lằn trong tim, minh muội mối cuồng say
Hằn trên mắt, nhẵn ngày chung mệnh số.
Dệt manh áo tuồng hề choàng xuống mộ!
Gieo suốt đời, phỏng bộ gặt được ư?
Cuộc trăm năm, phiên gác bước âm u
Từ cõi mộng, mịt mù về cõi mị.
Tô Thẩm Huy
Nguyên tác:
Before the beginning of years
There came to the making of man
Time, with a gift of tears;
Grief, with a glass that ran;
Pleasure, with pain for leaven;
Summer, with flowers that fell;
Remembrance fallen from heaven,
And madness risen from hell;
Strength without hands to smite;
Love that endures for a breath:
Night, the shadow of light,
And life, the shadow of death.
And the high gods took in hand
Fire, and the falling of tears,
And a measure of sliding sand
From under the feet of the years;
And froth and drift of the sea;
And dust of the labouring earth;
And bodies of things to be
In the houses of death and of birth;
And wrought with weeping and laughter,
And fashioned with loathing and love,
With life before and after
And death beneath and above,
With travail and heavy sorrow,
The holy spirit of man.
For a day and a night and a morrow,
That his strength might endure for a span
From the winds of the north and the south
They gathered as unto strife;
They breathed upon his mouth,
They filled his body with life;
Eyesight and speech they wrought
For the veils of the soul therein,
A time for labour and thought,
A time to serve and to sin
They gave him light in his ways,
And love, and a space for delight,
And beauty and length of days,
And night, and sleep in the night.
His speech is a burning fire;
With his lips he travaileth;
In his heart is a blind desire,
In his eyes foreknowledge of death;
He weaves, and is clothed with derision;
Sows, and he shall not reap;
His life is a watch or a vision
Between a sleep and a sleep.
- C. Swinburne