Viết lúc 4AM: Nai vàng thôi ngơ ngác…

 Vâng, chỉ có mỗi một mình tôi. Hôm nay tôi sẽ dành tất cả ngày cho văn học miền Bắc. Tôi sẽ mở lòng không phân hận, không dị ứng. Tôi sẽ mở ra những trang tạp chí Văn Học – cơ quan lý luận phê bình văn học của Hội Nhà Văn và tạp chí  Văn Nghệ, tạp chí văn học nghệ thuật cũng  của Hội Nhà Văn. Tôi sẽ là người lật lại những trang từ những tạp chí  từ lâu hẩm hiu trên kệ ngăn im lặng, đầy bóng tối vì chắc ít có ai bận tâm để mà bật ngọn đèn neong kế cận.


Lại lên đường. Mùa thu đã ở vào những ngày cuối. Cây cối đã trơ cành, lá đã rụng lớp lớp nằm bên đường. Trời u u, mây u u, giòng thượng nguồn Hudson vẫn còn chìm trong sương và  khói. Mỗi lần qua cầu, mỗi lần nhìn sông, lại tự nhiên nhớ lại những vần thơ Huy Cận Sóng gợn trường giang buồn điệp điệp/ Con thuyền xuôi mái nước song song… hay  Mênh mông không một chuyến đò ngang. Và càng tuyệt vời: Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà… Dù là cảnh Mỹ, sông Mỹ, nhưng cứ mỗi lần nhìn giòng trường giang ngủ thiếp, thấy bên bờ, lau lách hắt hiu thì lại nhớ đến trường giang của Huy Cận. Dù biết rằng ông là một kẻ trong guồng máy của chế độ mới, đã một thời nhào nặn những bài thơ hừng hực  kích động thanh niên miền Bắc vào Nam để  giết thanh niên miền Nam càng nhiều càng tốt.

   Rõ ràng miền Nam đã mở lòng  như một thư viện lớn. Văn học sử miền Nam  không cần biết gốc gác lý lịch, không dị ứng, không bế quan tỏa cảng. Những nhà thơ văn tiền chiến có tên trong chương trình học hành của học sinh trung học, phần lớn là ở  miền Bắc.  Không phải như miền Bắc bế quan tỏa cảng, nhìn đâu đâu cũng thấy “ngụy thù”, “biệt kích văn nghệ”, đâu đâu cũng lá “nọc độc văn hóa thực dân kiểu mới” ?

 Sau ba giờ, đại học Yale hiện ra, qua những tòa nhà kiến trúc Cổ La Hy với tường vách được xây bằng đá hoa cương. Mùa học đang tiếp diễn. Sinh viên tấp nập trên vĩa hè. Ta cũng thấy lòng hăm hở. Mang cái laptop, cái máy scanner, chân bước vui. Niềm vui khiến đôi chân bước không mệt, niềm vui hòa trộn trong một niềm vui chung, toát ra từ một cõi sách vở, học hỏi và trí thức. Niềm vui được ngồi trong một tòa lầu cao đến 14 tầng, mà tầng cao nhất, có những kệ ngăn xếp giữ đa số những tạp chí miền Nam và miền Bắc. 

Khi qua cánh cửa bằng gỗ dày cộm, láng bóng, mà những miếng bản lề đã rĩ sét, như một di sản tự hào của một ngôi trường danh tiếng nhất nhì nước Mỹ, căn phòng khách rộng mênh mông của trường, bỗng nhiên lạnh mát vì nóc nhà quá cao, và vì có lẽ, ở đây người ta muốn giữ gìn những dáng dấp, hơi hướm của một thời xa xưa. Giữa phòng là những tủ kính trưng bày những di vật, giấy tờ thời bắt đầu của trường. Hai bên phòng khách là giàn máy computer. Khách có thể xữ dụng, gởi email hay tìm truy tài liệu mà không cần ai dòm ngó, hỏi han. Phía trong sâu là căn phòng dành cho sinh viên research. Và ở giữa là chỗ mượn sách hay trả sách.  Sau khi trình thẻ thư viện cho nhân viên, tôi bấm nút thang máy lên lầu 7.  Thật ra lầu 7, nhưng là tầng thứ 14. Mỗi lầu có hai tầng. Ví dụ lầu 1, thì có hai tầng, 1 và 1M. Rồi thang máy đưa người lên cao, hàng chữ đỏ tiếp tục hiện ra, và cuối cùng 7M. Tôi biết hôm nay, chỗ này, chỉ có mỗi một mình tôi cùng với kệ ngăn và sách vở. Cám ơn xứ sở này, thư viện này, và biết bao thư viện khắp nước, đã giữ gìn văn chương VN, giữa lúc nó bị những bộ óc chăn trâu, cuồng tín, ra công truy diệt.

Vâng, chỉ có mỗi một mình tôi. Hôm nay tôi sẽ dành tất cả ngày cho văn học miền Bắc. Tôi sẽ mở lòng không phân hận, không dị ứng. Tôi sẽ mở ra những trang tạp chí Văn Học – cơ quan lý luận phê bình văn học của Hội Nhà Văn và tạp chí  Văn Nghệ, tạp chí văn học nghệ thuật cũng  của Hội Nhà Văn. Tôi sẽ là người lật lại những trang từ những tạp chí  từ lâu hẩm hiu trên kệ ngăn im lặng, đầy bóng tối vì chắc ít có ai bận tâm để mà bật ngọn đèn neong kế cận.

 

Thử chọn một số báo Văn Nghệ trong thời chiến.. Xem mục lục. Có thơ Tế Hanh, Huy Cận.. Có cả bài tùy bút của Nguyễn Tuân. Xin trích ra bài thơ của Huy Cận để bạn đọc thẩm định về giá trị văn chương của một nhà thơ nổi tiếng thời tiền chiến, được xã hội chũ nghĩa mở lối soi đường là như thế nào: (Click bài thơ để đọc rõ hơn)

Và những ý nghĩ  cuả Lưu Trọng Lư về nỗi buồn chinh phụ “thời nay” ở miền Bắc. Theo ông, họ nhớ mong, chờ đợi thật. Nhưng là nỗi nhớ mong chờ đợi không phải mòn mõi, võ vàng, không phải cầu khẩn Phật Trời cho người chồng được bình an trong cơn binh lửa. Không phải mong cho hết chiến tranh để người chồng trở về đoàn tụ, mà: Sáng đường cày mới là nhớ là mong/Sáng đường đạn mới là chờ là đợi(trích “thân phận người phụ nữ”, tạp chí Văn học số 1 năm 1973) Có người bảo vì chính sách, vì nồi cơm, vì cái bóng đè nghẹt thở, nhà thơ phải viết như vậy.Không phải vậy đâu. Đây là bài tham luận, và ông rất  hãnh diện trích những vần thơ mà ông xem là tâm đắc nhất. 

Ngay cả Nguyễn Tuân, khi Tô Vũ giận mình đập đầu đập trán tự sỉ vả mình: Tôi là thằng hèn, thì ông ta lại xuất bản một tập ký vào thời gian cuối đời của ông (năm 1986).,Ông ta vẫn hãnh diện chọn những bài ký đầy căm thù,, láo khóet, hằn hộc, máu me nhất để xuất bản thành sách.(Ký, Văn Học xb, 1986) Điều này chứng tỏ là ông đồng ý với những điều ông đã viết trước đây. Đáng lẽ chúng tôi trích đăng lại toàn bài bút ký của Nguyễn Tuân để làm bằng chứng, nhưng nghĩ phí giấy, phí sức vô ích. Chỉ trích một đoạnđối thoại  giữa lính Bắc và lính Nam trên cầu Bến Hải trong bút ký “ Chỗ đầu cầu đó, chỗ bờ sông đó, chỗ biển cát đó “. để quí bạn thấy ngòi bút của NT trước 1975 như thế nào. Ông có quyền nghĩ để viết những điều ông cho là đúng. Nhưng sự thật là sự thật. Có thật  máy cày từ miền Bắc vượt qua cầu Hiền Lương để vào miền Nam trước 1975 để giúp miền Nam?.

 


(Click đoạn trích để đọc rõ hơn)

Tôi nhớ lại tâm sự của một nhà văn miền Bắc. Anh nói, sau 1975, vào Saigon, anh chỉ đi tìm sách. May mắn cho anh chỉ có một tập “Những truyện ngắn hay nhất của quê hương chúng ta” do Sóng xuất bản vào năm 1973. Chỉ một tập duy nhất, Tai sao vậy ? Anh hỏi. Vì sao?Có lẽ những vị hàn lâm thời ấy chỉ biết tác phẩm Phê Bình Văn Học của Vũ Ngọc Phan  để mà soạn sách giáo khoa. Hay có lẽ các ngài có thẩm quyền văn hóa tốt nghiệp bên Tây bên Mỹ, nhà trường đâu có bao giờ bắt  đọc Sáng Tạo, Hiện Đại, Thế Kỷ 20 ?  Tôi xếp sách lại, không còn thắc mắc, tò mò nữa. Tôi biết tôi không thể tìm một  nỗi  may mắn giữa kệ ngăn đầy sách báo miền Bắc trong thư viện này. Nếu có chăng là  Tiếng Nói, như hai bài thơ sau đây, tòa soạn nhận được từ một người bạn thơ trong nướx:
   Tiếng nói 1

(Cho anh tôi đã mất)

 

Tôi đã chạy ra khỏi thế giới đầy thù hận. Tưởng thế! Vượt nửa vòng trái đất. Sao nó vẫn cứ bám riết tôi. Cái nhóm người này cứ đòi giết tôi. Mà tôi đã làm gì kia chứ! Tôi chỉ làm theo trái tim tuổi trẻ mách bảo tôi thôi mà. Tôi chỉ làm theo mệnh lệnh thôi mà!

 Hôm nay tôi đang ngồi một mình giữa bốn bức tường. Thuốc lá trên tay, hết điếu này đến điếu khác. Hít thật sâu để nghe cái vị đắng nồng của chất độc Nicotin nó đang làm tôi làm tình những nhịp đập của trái tim tôi. Kéo rít từng cơn, rồi nhả những vòng khói trắng mờ đục. Những vòng khói đang nhốt đời tôi trong ấy. Những vòng khói đang bủa vây tôi rồi ném tôi xuống vực sâu, rắn rít đang chờ đợi tôi.

 Hôm nay tôi đang ngồi một mình trong căn phòng trống. Chỉ có một chiếc ghế tôi đang ngồi. Người ta đang tra vấn tôi đấy. Họ đang lục tìm trong đầu tôi có gì chống đối họ không. Họ đang moi móc trong trí nhớ tôi những điều tôi nghĩ. Họ muốn đập phá thành trì mà tôi dựng ra . Họ dẫm đạp lên cái triết lý sống mà tôi đã góp nhặt được cả một thời tuổi trẻ của tôi. Họ muốn tẩy rửa cái đầu tôi trắng tinh như tờ giấy trắng chưa có một vết mực nào. Tiếng nói của họ cứ vo ve trong cái đầu tôi như những tiếng ong vò vẽ. “Mầy hãy tự giết mầy đi! Mầy hãy tự giết mầy đi!” Tiếng ong vò vẽ càng lúc càng lớn dần. Lỗ tai tôi bắt đầu muốn phá sản. Nhưng làm sao mà họ bắt tôi làm như thế được! Không đâu. Tôi ôm chặt. Tôi giữ chặt. Tôi sống chết với thành trì của tôi. Đừng đụng đến tôi. Hình như họ nghe tôi nói. Họ đã đi rồi. Họ đã đi rồi. Họ hết muốn tra tấn tôi. Họ hết muốn bỏ những con bò cạp nhiều chân trong cái đầu bé xíu của tôi. Họ đã đi rôì.

 Tôi nhìn tôi giữa bốn bức tường. Lặng câm. Đêm đậm đặc.

 

KTN ngày 30 tháng 9 năm 2008

 

 

Tiếng nói 2

(Cho chị tôi đã mất)

 

Hôm nay họ lại đặt máy ghi âm trong đầu tôi đấy. Họ muốn xem tôi có suy nghĩ gì mới nữa không? Rồi họ cũng muốn xem tôi có cất giữ những gì họ đã nhồi nhét vào đầu tôi không? Họ nghi ngờ tôi giả vờ nghe họ thôi. Họ sợ tôi vứt những học thuyết ưu việt của họ xuống cống rãnh. Họ cũng biết sợ đấy chứ! Sao không? Chính vì sợ mà họ tìm đủ mọi cách để biết tôi nghĩ gì. Ôi! chiếc máy ghi âm đang nằm trong đầu tôi đấy. Nó cựa quậy. Nó nhúc nhích. Nó phát ra những tín hiệu quái đản, những âm thanh rè rè khó chịu lắm. Nó ngoáy sâu vào trong tai tôi những luồng điện lăng tăng chạy ngược lên màng tang làm những sợi thần kinh sợ hãi của tôi căng ra . Buồng phổi tôi cương phồng. Buồng tim tôi sưng cứng. Nó đang gầm gừ như thầm bảo tôi, đừng ngoan cố nữa! Hãy nghe lời họ đi! Đừng ngoan cố nữa ! Rồi bỗng nhiên nó im lặng. Một sự yên lặng đến dễ sợ. Cũng có thể nó tội nghiệp tôi? Dạo này nó hay thăm viếng tôi. Ở với tôi riết rồi nó thương tôi chăng? Chắc nó biết tôi đuối sức rồi. Hay nó cũng mệt mõi như tôi? Thế là tôi với nó cùng ngủ. Nó bắt tôi ngủ li bì. Nó muốn tôi lấy lại sức đấy thôi!

 

Nhưng thật ra nó không làm chủ nó đươc. Họ là những ông chủ của nó đó. Họ đánh thức nó dậy. Và nó liền đánh thức tôi dậy cho có bạn, có lẽ vậy. Nó lại tiếp tục ghi âm. Ôi chao! Nó lại lãi nhãi cùng một điệp khúc. Tôi quen rồi nên giả vờ ngủ. Thế là nó tấn công tôi tứ phía, bắt tôi phải thức dậy. Lần này nó lên giọng với tôi. Nó đang bị chủ nó rầy rà. Nó bảo tôi” hãy khai ra mau. Khai ra mau”. Mà khai gì chứ? Nó bắt tôi phải khai ra. Tôi đã giết bao nhiêu người trong tổ chức của nó. Bàn tay tôi đã từng vấy máu, máu của những người có cùng tiếng nói, cùng màu da của tôi không? Tôi đã có bao nhiêu năm phục vụ cho phe chống đối chủ nó. Tôi đã xài bao nhiêu viên đạn. Tôi đã làm cùn bao nhiêu lưỡi lê. Ôi quá nhiều câu hỏi để tôi trả lời. Tôi tối tăm mặt mũi. Tôi u mê ám chướng. Tôi..Tôi…Mà làm sao tôi trả lời hết chừng ấy câu hỏi. Tôi đành nằm im cho nó hành hạ. Tôi biết chắc là cái máy ghi âm cũng vì sợ mà hăm dọa tôi đủ điều. Nó chơi trò hú tim. Nó đánh hỏa mù. Nó chơi trò khủng bố. Nó bảo với tôi rằng nó biết mọi chuyện tôi đã làm. Chẳng qua vì nó muốn thử lòng tôi thôi. Nó muốn xem tôi có thành khẩn với nó mà thôi.Tôi đâu có ngu! Nó càng chơi trò tâm lý, tôi càng co lại. Nó càng chơi trò xấu xa, tôi càng thun lại. Tôi cuộn tròn như con cuốn chiếu. Tới lúc này, nó cũng bắt đầu mệt mõi. Nó để tôi nằm im. Cứ thế hết ngày này đến ngày kia, nó cùng thức ngủ với tôi. Riết rồi nó quen hơi tôi. Trước kia, có lúc nó đi đâu đó rồi về thăm tôi. Bây giờ nó quen mùi, nó không thèm đi đâu nữa. Họ bắt nó đi nó cũng không đi. Nó cứ ù lì nằm miết trong đầu của tôi. Càng lúc nó càng làm tôi khó chịu. Nó rên rỉ suốt ngày. Tôi biết nó đang dùng cái chiêu khác để nó khai thác tôi đây. Tôi hết chịu nổi rồi. Tôi hết chịu nổi rồi. Tôi biết mà! Nhưng tôi chưa chịu đầu hang vô điều kiện như thế này đâu. Tôi bèn thương lượng với nó. Tôi sẽ sống hòa bình với nó. Nó xiu lòng. Không biết được đến bao giờ. Nhưng ít ra là bây giờ tôi đang được yên. Tôi đang được yên.

 

Tôi lại ngủ li bì mà tai vẫn nghe mãi bản hòa tấu bi ai!

KTN ngày 7 tháng 10 năm 2008

 

%d