Truyện thời chiến của Trần Hoài Thư
Bà lão tự nhiên òa khóc: “Ðêm nay rằm tôi không thể để nó lạnh lẽo dưới đất. Tôi mong nó lên hưởng chút hương đèn…” “Dạ, ngoại nói đúng. Khi chết rồi ai cũng như ai, không còn là ngụy cũng không còn là VC, không còn Bắc không còn Nam. Thưa ngoại, xin ngoại cho con một cây nhang, để con cùng cầu cho anh ấy, nghe ngoại.” Tôi nói mà lòng tôi ràn rụa.
Chúng tôi đã bắt đầu đốt lên những bếp lửa đầu tiên của một đêm về muộn.
Sau một ngày lội đến quỵ cả gối, tắm mình trong một dòng sông hẹp và sâu, vượt qua những xóm làng hoang vu không một bóng người, và thèm ghê gớm một chỗ nằm, một giếng nước mát, một ngọn đèn dầu, và một bữa cơm nóng sốt, bây giờ chúng tôi lại ngồi ở đây, trước ngọn cổ tháp. Lệnh cho biết, lát nữa, một đoàn xe của tiểu khu – đơn vị mà chúng tôi tăng phái – sẽ đến đón những đứa con của chiến trường trở về. Tin trên, được truyền từ một người lính truyền tin của bộ chỉ huy, đã như một tín hiệu rực rỡ nhất, vui mừng nhất. Không ai bảo ai, ngả lưng trên nền đất cỏ, tháo ba lô và súng đạn trên mình, và tụm năm, tụm ba, đốt thuốc, ngồi vây quanh những bếp lửa hồng.
Chiều đã tan biến từ lúc nào, bây giờ màn đêm đã dần buông, bằng một đôi cánh mỏng nhẹ. Hơi gió đã nghe thở xào xạc. Một vì sao đã hiện lên trên đỉnh tháp, xa vắng như con mắt tình nhân. Những gợn mây hồng ở cuối chân trời vẫn le lói chút đỉnh để kéo chút hơi ngày. Và đâu đây là tiếng vạc cầm canh đã vang lên từ cánh đồng ngập nước. Lạnh quá đi. Một người lính đã thốt lên và run rẩy. Nước bùn, nước sông, pha lẫn mồ hôi của một ngày đã còn dầm dề trên những bộ quần áo trận. Ðó là kết quả của một ngày mệt mỏi và đầy căng thẳng. Buổi sáng với tuyến xuất phát từ chiếc cầu Bình Khê, và đền thờ của vua Tây Sơn, và buổi tối là ngọn tháp Chàm này. Từ tuyến xuất phát, chúng tôi được lệnh cùng một đơn vị bạn, tiếp tục lục soát một chiều dài non hai chục cây số. Chúng tôi phải chiếm lần lượt những ngôi làng bỏ hoang, và có thể, di tản một số dân còn lại về vùng an ninh. Chúng tôi đã vô sự. Ðiều này, chắc làm mấy ông sĩ quan cao cấp không bằng lòng tí nào. Nhưng đối với chúng tôi, chúng tôi chỉ mong như thế. Vô sự, hai chữ ấy như một sức hấp dẫn mãnh liệt. Ðời chiến binh chỉ mong bao nhiêu. Nhưng mấy ai thoát được trên trăm ngàn cuộc ra quân. Vì thế, lần dừng quân chiều nay, có lẽ chúng tôi là những kẻ sung sướng nhất. Một người đã huýt sáo nho nhỏ. Một người cố lục dưới đáy ba lô, tìm gói lương khô cuối cùng để chống cơn đói. Một người đang cởi áo hơ trên ngọn lửa. Trong thinh không màu sậm tối, những cánh dơi từ trong lòng tháp vụt bay ra, lượn vờn trên đầu đám quân. Những tiếng reo dòn của lửa thật êm ái. Và chúng tôi mong vô cùng được nghe lại tiếng xe mười bánh bên đường. Người lính già thì mong chờ về gặp đàn cháu nội ngoại, hay hớp rượu thuốc. Người lính trẻ thì mong gặp người yêu trông đợi. Còn tôi, thú thật, thèm được chắp đôi cánh của một loài ó bay về thành phố. Rồi một góc tối trong một quán cà phê, đầy âm nhạc, đầy bạn hữu, đầy những sợi khói nồng nàn, lãng đãng của ngày thanh xuân. Rồi rượu, đàn bà… Tôi đang dệt những cơn mơ rực rỡ ấy trong một buổi tối đầy bình an này.
oOo
Một tiếng nói đã cất lên giữa những đứa con ăn sương nằm đất: “Ðây là thành Ðồ Bàn. Tháp trước mặt là tháp Cảnh Tiên hay còn gọi là Tháp Ðồng đấy”.
Một giọng nói khác phụ vào: “Thì ra bọn mình đang đóng đô trên kinh đô Chiêm Thành “. “Vâng, tháp này là nơi mà vua Chế bồng Nga đóng đô. Tôi nghe một ông già trong vùng kể lại, đây là nơi vua Trần đã một lần chiếm đóng và tàn phá khủng khiếp …”
Tôi vẫn nằm dựa lưng vào ba lô, lắng nghe những lời trao đổi. Giọng nói buồn buồn của người lính ngồi bên cạnh đã làm tôi xúc động. Thì ra, bãi cỏ xanh mướt này, từng là một bãi chiến trường. Tôi đã đọc trong sách vở mô tả lại trận đánh ghê khiếp trong lần vua Trần viễn chinh. Vua Trần Duệ Tông đã bị phơi xác khi tìm cách thúc đoàn quân chiếm thành Ðồ Bàn. Rồi những cuộc viễn chinh sau đó, sau khi vua Chế Bồng Nga qua đời, đã mỗi lúc mỗi xô đuổi người Chiêm Thành chạy về phía Nam. Thành Ðồ Bàn bị thất thủ. Kinh đô Chiêm bị thiêu hủy. Giờ đây là những phế tích đau buồn bằng mấy ngọn tháp cô quạnh trong dòng vô tình của lịch sử. Chúng như biểu tượng một thời của đền đài cung điện, của xe ngựa dập dìu. Chúng có mặt như là những hồn ma cô đơn nhất.
Một người bạn đã xin tôi một điếu thuốc lá đen. Tôi cười: bao thuốc xanh của tôi đã bị ướt nhão nhoẹt khi lội qua sông. Gió đã bắt đầu lạnh hơn. Những ngọn lửa đã bắt đầu yếu dần. Trăng đã lên cao, nằm lẻ loi trên một chòm cây khẳng khiu. Tiếng vạc lại nổi lên, đều đều từ phía đồng ruộng. Tôi vẫn nằm yên, lưng dựa vào balô, và tâm hồn tôi trải rộng như bóng đêm đang phủ. Có tiếng chửi thề: “Bộ xe để đưa rước ông bà lớn, các cô các cậu lớn hết sao bây giờ vẫn chưa thấy ló mặt đến”. Một giọng khác phụ họa: “Chắc mấy tay bán hết xăng rồi, giờ này xe nằm ụ”. Rồi tiếng ho khan nổi lên trong hàng quân, cùng tiếng cười la từ phía ban chỉ huy. Có lẽ, trong tâm trí của mỗi đứa con chiến trường đều hiển hiện những ngọn đèn thân yêu nhất của mình. Và vô tình giữa cõi trăng sáng trong vắt, tôi bỗng nhận ra một tấm bảng nổi lên trên một gò đất xanh um. Tôi đến nơi và đọc: “Mồ chôn tập thể địch quân”. Tôi hỏi người bạn, nguyên là dân địa phương. Anh ta trả lời: “Mồ chôn của cả tiểu đoàn V.C đấy. Cậu không nhớ lần bọn chúng về đánh Ðập Ðá, bị vây tứ phía, không còn để lọt một trự sao?” “Vâng, tôi nhớ ra rồi. Ðại Hàn nằm phía Bắc. Phía Ðông Nam là mình. Phía Tây là trung đoàn. Vòng vây càng lúc càng xiết chặt. Ðịch không một ai chạy thoát. Trận đánh suốt cả tuần. Nhưng tôi không thể ngờ, tại sao họ lại đào ngay tại đây để chôn xác người. Bi thiết quá” “Tại sao là bi thiết. Thì chôn ở đâu bây giờ? Cả trăm mạng” “Tôi muốn nói cái oan khiên của lịch sử. Mấy trăm năm trước, bao nhiêu người chắc đã chết tại nơi này. Và mấy trăm năm sau, lại thêm bao nhiêu xác người khác nữa nằm tiếp thêm… Họ đòi nợ nhau. Và cuối cùng Bắc Nam Chiêm Thành cùng nằm chung dưới một gò huyệt”.
Giữa lúc ấy, từ phía xa, mờ ẩn một ánh đèn bão. ánh đèn càng lúc càng tiến lại gần phía chúng tôi. Chừng như người mang đèn không hề biết sự có mặt của đám con chiến trường. Giọng quát của người lính canh: “Ai đó đứng lại !” Ngọn đèn đứng yên. Tiếng nói mất còn trong sợ hãi vọng lại: “Tôi đây, xin các ông tha cho tôi, bởi tôi không biết…” Dưới ánh trăng sáng vằng vặc, tôi thấy lờ mờ hình dáng của một bà lão. Tiếng cằn nhằn của người lính tiếp tục vang lên: “Bà già quả gan thật. Bà không biết giờ này giới nghiêm hay sao? Một mình bà lại đến khu vực này. Bà đi tiếp tế cho VC hay sao?” “Bẫm ông, tôi già rồi” “Bộ già không phải là VC sao?” Tôi đến bên bà lão. Bây giờ tôi mới thấy rõ hơn. Tóc bà bạc phơ. Gương mặt nhăn nhúm lại. Tôi bắt gặp bà mang một gói vải. Tôi nói lính lục soát. Kinh nghiệm cho chúng tôi biết đa số những người dân trong vùng đều có chồng con nhảy núi, và đêm đêm họ hay mang đồ tiếp tế. Có thể là thuốc tây, áo quần, hay lương khô. Người lính mở gói đồ. Một bó nhang, giấy vàng bạc, một nải chuối…Chỉ có bấy nhiêu. Tim tôi chợt nhói. Vâng, tôi đã hiểu. Hiểu hơn ai hết, vì chính mẹ tôi cũng từng làm như vậy trong những đêm xa xưa, sau khi anh tôi vượt sông cái. Bà đã dám lặn lội đến bãi chiến để thắp nén nhang, đốt vàng bạc, với niềm tin là hương hồn của người chết được siêu thoát, không còn phải kêu gào thảm thiết giữa đàn âm binh chết trận. Tôi hỏi bà lão: “Chắc ngoại có thân nhân chết và bị chôn dập dưới hố phải không?” Bà lão ú ớ. Tôi nói tiếp: “Cháu không làm khó dễ gì ngoại đâu. Bởi mẹ cháu cũng thế, hầu hết những người mẹ có con chết trận đều như thế.” Bà lão tự nhiên òa khóc: “Ðêm nay rằm tôi không thể để nó lạnh lẽo dưới đất. Tôi mong nó lên hưởng chút hương đèn…” “Dạ, ngoại nói đúng. Khi chết rồi ai cũng như ai, không còn là ngụy cũng không còn là VC, không còn Bắc không còn Nam. Thưa ngoại, xin ngoại cho con một cây nhang, để con cùng cầu cho anh ấy, nghe ngoại.” Tôi nói mà lòng tôi ràn rụa.
.