(Nguồn: Thư Quán Bản Thảo số 94 tháng 8-2021)
LTS: Trong phân Sống và Viết kỳ này, Tòa soạn Thư Quán Bản Thảo đã mời nhà thơ Nguyễn Thụy Đan và nhà nhận định văn học Nguyễn Vy Khanh viết lại buổi sinh hoạt văn học mà họ tham dư với tinh cách là diên giả.
Trước hết là suy nghĩ của nhà thơ Nguyễn Thụy Đan qua Đêm đọc thơ tại Columbia (Mỹ). Sau là bài viết tường thuật về cuộc hội thảo văn học miền Nam tại đại học Hamburg (Đức) của Nguyễn Vy Khanh.
(copyright @ TQBT)
Việt Thạch Nguyễn Thụy Đan
THỜI ĐẠI THẦN TIÊN
Dã hỏa thiêu bất tận
Xuân phong xuy hựu sinh
Bạch Cư Dị, Phú đắc cổ nguyên thảo tống biệt
Xu hướng “lão hóa” trong sinh hoạt văn đàn Việt Nam hải ngoại đã được các cây bút danh tiếng của làng văn hải ngoại đề cập và dự đoán từ những năm cuối thập niên 1980, đầu thập niên 1990. Có lẽ, trên văn đàn hải ngoại một trong những người trầm tư và lập luận nhiều nhất về hiện tượng này, chính là cố tiểu thuyết gia Nguyễn Mộng Giác (1940 – 2012). Trong các bài tiểu luận của Nguyễn Mộng Giác phân tích về quan điểm tương đối tiêu cực của ông về quang cảnh và tiền đồ văn đàn hải ngoại, chúng ta thấy nhắc đi nhắc lại vấn đề rào cản ngôn ngữ giữa thế hệ tiền bối và con em hậu sinh ở hải ngoại như một yếu điểm của lập luận ông về tương lai ảm đạm của sinh hoạt văn đàn hải ngoại. Dù gì, lập trường của Nguyễn Mộng Giác ít nhiều đã được một phần đáng kể của văn đàn hải ngoại mặc nhận là đúng, hoặc chí ít là đi đúng hướng. Ngày nay, khái niệm “lão hóa” đã không còn là lý thuyết viễn cảnh, mà đã được chính thức hóa thành một lập trường phê bình văn học để nhìn nhận và phân tích một giai đoạn văn học sử của văn đàn hải ngoại hoặc đang diễn ra và sắp lui dần về cuối, hoặc – theo cái lập trường cực đoan hơn – đã yên tiêu vân tán theo hai thập niên đầu của đệ tam thiên niên kỷ. Xin đơn cử bài tựa trong tập 44 năm Văn Học Việt Nam Hải Ngoại (1975 – 2019) của nhóm Nguyễn Vy Khanh, Luân Hoán, Khánh Trường thực hiện và xuất bản năm 2019, trong đấy đã phân loại những năm từ 2001 đến 2019 là “Giai đoạn lão hóa” của văn đàn hải ngoại.
Rào cản ngôn ngữ – cụ thể từ phía giới “trẻ” (dù bây giờ khái niệm giới “trẻ” cộng đồng hải ngoại đã bao gồm những nhà văn bước sang tuổi trung niên như Viet Thanh Nguyen) không đủ hiểu biết về tiếng Việt để vận dụng trong việc sáng tác và thưởng thức văn chương – dẫn đến hiện tượng lão hóa, cũng như các hệ quả của hiện tượng này đối với văn đàn hải ngoại, dù có đóng vai trò lớn cỡ mấy, nhưng không phải là rào cản duy nhất, cũng không phải là nguyên nhân duy nhất, đã đưa văn đàn hải ngoại vào cái thế vãn tiết mạt lộ của ngày nay. Cụ thể ở đây, tôi muốn nói đến một rào cản khác – dường như là căn bệnh ảnh hưởng nhiều đến thế hệ tiền bối hơn là giới trẻ – đấy chính là sự tách rời và cô lập của văn đàn hải ngoại ra khỏi cộng đồng tri thức bản xứ, cụ thể là ra khỏi hệ thống trường ốc đại học Hoa Kỳ. Di dân học giới Việt Nam Cộng Hòa chúng ta chịu thiệt hơn di dân Trung Hoa, dù gì vẫn có các trường đại học danh tiếng ở Đài Loan và Hương Cảng làm đất dụng võ của họ, vừa tạo được môi trường cho họ đối thoại với nhau, vừa tạo được sân chơi đường đường chính chính để họ giao lưu và đối thoại với học giới và độc giả quốc tế, trong đó cố nhiên bao gồm Đại Lục. Cộng đồng di dân Trung Hoa đã sản xuất được một vị Tiền Mục (1895 – 1990), vì sao bắc đẩu của sử triết Trung Hoa thế kỷ 20, chính là nhờ vào hệ thống đại học của Hương Cảng và Đài Loan. Cộng đồng di dân Việt Nam, dù có những học giả tầm cỡ như Tạ Chí Đại Trường (1938 – 2016) hay Nguyễn Văn Sâm, nhưng vì thiếu điều kiện “danh chính ngôn thuận” của học giới chính thức, một bên ít được học giới Hoa Kỳ công nhận, một bên phải nhờ vào giấy cấp phép và sự ưu ái cực kỳ “nay nắng mai mưa” của học giới hải nội để tìm đến tay độc giả đủ kiến thức để đọc, phê bình, và đối thoại với những công trình nghiên cứu tâm huyết và chuyên sâu của mình. Chưa kể, bản thân chất lượng của những công trình học thuật được thực hành trong môi trường lâu ngày thiếu sự mài giũa của phản biện và những cập nhật tối tân của học giới, cũng khó có thể tránh khỏi thảm trạng mai một và lỗi thời.
Cụ thể hơn, học giới tôi đề cập ở đây là riêng nói học giới ngành Việt Nam học (Vietnamese studies), một danh xưng vụng về để gọi chung các ngành học thuật văn sử triết liên quan tới Việt Nam. Cứ ngu ý, sự chia cách giữa học giới Việt Nam học Hoa Kỳ và tri thức trong cộng đồng di dân hải ngoại, cơ hồ là nhị phân, nước sông không phạm nước giếng. Nói về sử trung đại, giáo sư Keith Taylor – theo tôi, với tư cách là môn sinh của đệ tử nhập thất của ông – đã thành công trong việc giải cấu trúc gần như toàn bộ các diễn ngôn chủ lưu đã chi phối sử học Việt Nam xuyên suốt hạ bán thế kỷ 20, đặc biệt trong học giới hải nội. Tuy nhiên, tôi hầu như chưa gặp nhà cầm bút nào trong cộng đồng di dân nhắc đến tên tuổi hay đại tác A History of the Vietnamese (2013) của ông. Nói về sử thế kỷ 20, có những vị gốc di dân như cựu giáo sư Hue-Tam Ho Tai, trong học giới thì ai ai cũng biết, nhưng lại tương đối vô danh trong cộng đồng hải ngoại. Nói về văn học, lại có những vị như giáo sư Peter Zinoman, chuyên sâu về văn học Việt Nam thế kỷ 20, có ảnh hưởng và tiếng nói khá quyền lực trong học giới Việt Nam học quốc tế, nhưng lại hoàn toàn vắng mặt trong tác phẩm phê bình văn học của văn đàn hải ngoại. Đương nhiên, lỗi không nằm về riêng một bên – những công trình nghiên cứu và tác phẩm học thuật của học giới Hoa Kỳ liên quan đến văn đàn hải ngoại cũng tương đối ít. Gần đây nhất, có thể kể đến cuốn Vo Phien and the Sadness of Exile (2006) của John C. Schafer viết về Võ Phiến hoặc luận án tiến sĩ Lê Thị Huệ: Writing between Exilic Homelessness and Situated Nomadism (2012) của Nguyễn Vũ Khuyên viết về nhà văn Lê thị Huệ. Giao lưu với giới Việt Nam học tại Hoa Kỳ, lâu dần tôi đã quen khi đồng nghiệp – kể cả những người gốc Việt – không hề hay biết, thậm chí, không hề quan tâm đến những sinh hoạt và nhân vật văn đàn hải ngoại vốn đang tồn tại song song với họ trong cùng một quốc gia, thậm chí trong cùng một thành phố.
Cố nhiên, sự ngăn cách giữa tri thức hải ngoại – tri thức theo nghĩa rộng, bao gồm cả văn nghệ sĩ – và tri thức học giới Việt Nam học một phần có thể giải thích đơn thuần là một dạng hợp tác phân công giữa hai cộng đồng vốn có căn cước và mục tiêu khác nhau – học thuật lo đàng học thuật, nghệ thuật lo đàng nghệ thuật. Dù vậy, trước hiện trạng lão hóa nhãn tiền của văn đàn hải ngoại, đã đến lúc – cứ ngu ý – việc kết nối giữa văn đàn hải ngoại và học giới Hoa Kỳ đã trở nên vấn đề cấp bách, thậm chí là vấn đề then chốt có khả năng định đoạt sự tồn vong của di sản văn học Việt Nam hải ngoại trong một thời kỳ đầy rẫy những biến huyễn bất trắc trong sinh hoạt cộng đồng và quốc tế. Cũng như nhà văn Trần Hoài Thư đã khâu lại văn học sử Việt Nam Cộng Hòa từ lưu trữ của thư viện đại học Cornell, có lẽ tháp ngà của học giới Hoa Kỳ và hệ thống thư viện của các trường đại học uy tín sẽ là một nơi trú ẩn bền vững cho văn học sử Việt Nam hải ngoại. Nói cách khác, tôi không sợ sẽ không có một Trần Hoài Thư tái thế, có chí hướng và tài học để thực hiện một công trình sưu tầm văn thơ hải ngoại tương tự bộ Thơ Miền Nam Trong Thời Chiến – điều tôi sợ là sẽ không có một kho lưu trữ văn học hải ngoại tương tự thư viện Cornell lưu trữ văn học Việt Nam Cộng Hòa. Dù có những bộ sưu tầm đồ sộ và chất lượng như tập 44 Năm Văn Học Việt Nam Hải Ngoại (1975 – 2019) nói trên, song việc sưu tầm, đọc, và phê bình cùng một nền văn học ấy của những người đến sau sẽ có giá trị riêng, cũng như tác phẩm của Trần Hoài Thư mang ý nghĩa và sắc thái khác những tuyển tập văn thơ miền Nam đã được xuất bản trước năm 1975 – ý nghĩa của việc Trần Hoài Thư sưu tầm lại văn học miền Nam sau biến cố 1975 đã biến thiên hẳn so với cùng một công trình ấy nếu đã diễn ra trước đó chỉ vài năm. Vậy nên, tôi hằng mong khi đến ngày chúng ta có đủ khoảng cách lịch sử để đọc lại văn học hải ngoại, bấy giờ chúng ta cũng sẽ có những môi trường và điều kiện thuận lợi cho việc nghiên cứu và sưu tầm tài liệu gốc đủ rộng và đủ sâu để phát hiện ra và phân tích những hiện tượng, những khuynh hướng, những mạch lạc ly kỳ và bất ngờ trong văn học sử hải ngoại mà ngày nay chúng ta – khi còn đang thất thểu giữa cuộc – chưa chắc có thể nhận ra cho đúng đắn.
Sự kết nối này – nếu muốn thành sự cho mỹ mãn – sẽ cần đến sự hiệp lực và thiện chí của cả hai bên học giới và cộng đồng hải ngoại. Tôi không rao giảng những khẩu hiệu suông – điều tôi nói đến ở đây là sự cần thiết của những mối kết giao và hợp tác rất cụ thể và, thậm chí, mang ít nhiều tính cá nhân giữa con người và con người. Như bao điều nghịch lý thú vị khác trong vũ trụ khó hiểu này, qua sự kiện thường niên Đêm Thơ Việt Nam của ngành Việt Nam học, khoa Ngôn ngữ và Văn hóa Đông Á Đại học Columbia, Nữu Ước, tôi đã đích thân chứng kiến chồi non của sự phối hợp lý tưởng này manh nha giữa cơn thế nạn đại dịch Vũ Hán năm 2020. Như một phép lạ, giữa nghìn muôn cản trở của đại dịch, nhờ công nghệ hiện đại, tôi đã có dịp giúp tổ chức và tham dự sự kiện này với tư cách là một trong bốn diễn giả, bao gồm Nguyễn Quốc Vinh – học giả Hoa Kỳ, nhà thơ Nhã Thuyên tham gia trực tuyến từ Hà Nội, nhà thơ kiêm dịch giả Nguyễn Hoàng Quyên tham gia trực tuyến từ Saigon, và tôi. Ngành Việt Nam học của Đại học Columbia tuy mới được chính thức thành lập từ năm 2019 – song le, giáo sư John D. Phan đã bắt đầu tổ chức Đêm Thơ Việt Nam từ trước đó, cho đến nay Đêm Thơ đã trở nên một sự kiện thường niên được tổ chức vào học kỳ mùa thu của mỗi học niên.
Vốn dĩ, ngành Việt Nam học ở Columbia, tuy có sự tham gia của giáo sư Liên Hằng Nguyễn, chuyên về chính sách miền Bắc thời chiến, nhưng xét chung có khuynh hướng thiên nặng về văn sử triết trung đại hơn là thế kỷ 20 và đương đại. Vì vậy, nội dung của đa phần những buổi Đêm Thơ Việt Nam cũng phản ánh khuynh hướng này – thường các tác giả và tác phẩm được giới thiệu trong những buổi trước đây đều là những tác giả viết thơ cổ điển, hoặc Hán hoặc Nôm, và sống trước thế kỷ 20. Năm 2019, tôi cũng đã tham gia với tư cách là diễn giả thuyết trình về thơ Hán đương đại của tôi và một số tác giả sinh sống ở hải nội. Tuy nhiên, vì nhiều lý do, sang năm 2020, tôi lại cảm thấy thời cơ đã chín muồi để đem lại một luồng gió mới đến ngành – văn học trung đại, dù vẫn là sở trường và đam mê của tôi, song cứ ý tôi ở một nơi như Columbia, trung tâm Hán học của học giới toàn cầu, chẳng thiếu ai ai đủ am tường để thuyết trình về thơ cổ điển, mà, nói từ phía sinh viên, họ cũng thường xuyên tiếp cận nền văn học ấy trong quá trình đào tạo và học tập, nên có bớt đi một buổi thuyết trình về thơ cận thể đời Nguyễn, thiết nghĩ chung quy vẫn vô thưởng vô phạt. Đồng thời, về mặt cá nhân, sau nhiều trăn trở về thao tác viết thơ trong bối cảnh đương đại cũng như một số biến cố lớn trong đời tư, suốt năm 2020 tôi đã dần dần bớt sáng tác thơ cổ điển mà, thay vào đó, lại tập trung đọc rộng thơ hiện đại, cụ thể là từ các tuyển tập thơ miền Nam của Trần Hoài Thư. Vậy nên, khi lên kế hoạch tổ chức Đêm Thơ năm 2020, tôi đã muốn cho sự kiện này bứt phá với những năm trước kia bằng cách là hoàn toàn lược ra phần thơ trung đại, mà chỉ tập trung vào thơ thế kỷ 20 và đương đại. Buổi Đêm Thơ trực tuyến đã bao gồm phần trình bày của Nguyễn Quốc Vinh về motif đồng tính luyến ái trong thơ Huy Cận và Xuân Diệu, phần đọc sáng tác cá nhân của Nhã Thuyên, phần trình bày của Nguyễn Hoàng Quyên về quan điểm mỹ học và thi học của Hàn Mặc Tử, nhóm Dạ Đài, và Nguyễn Thanh Hiện, và, sau cùng, phần trình bày của tôi, đọc thơ Nguyên Sa, Trang Châu, và Nguyễn Xuân Thiệp trích từ tuyển tập Thơ Miền Nam Trong Thời Chiến của Trần Hoài Thư.
Một năm trôi qua. Dịch tình ở Hoa Kỳ tuy đã nguôi đi vài phần, nhưng hiện nay khi tôi viết những dòng chữ này, thì cả Saigon lẫn Hà Nội đều đang phong thành, dân chúng nơi nơi đều khổ sở, bất an. Tuy câu cửa miệng của chúng ta hai năm qua vẫn là “khi hết dịch”, “khi đỡ dịch”, v.v… song thực tế trước mắt cũng chẳng còn mấy tia hy vọng rằng sinh hoạt xã hội và việc đi lại quốc tế sẽ trở lại bình thường trong tương lai gần. Đặc biệt, đối với những người không có quốc tịch Việt Nam, việc trở về hải nội vào lúc này đã trở nên hết sức phức tạp, nếu không nói là không tưởng. Tuy nhiên, dịch Vũ Hán đã thúc đẩy chúng ta vào cái thế bất khả kháng, buộc phải nhờ đến những phương tiện trực tuyến để liên kết con người với con người để tiếp tục những sinh hoạt và giao lưu cần thiết cho đời sống thường nhật, cũng như đời sống tinh thần. Thời gian vừa qua, lại có thêm một số hiện tượng thú vị và khả quan cho văn đàn hải ngoại. Sự “trực tuyến hóa” của toàn bộ cuộc sống từ năm 2020 đến nay đã tạo ra nhiều điều kiện cho người ngoài tiếp cận những sinh hoạt của học giới mà trước kia chỉ diễn ra trong môi trường cao cổng kín tường của tháp ngà học giới. Chẳng hạn, tháng 6 vừa rồi, đại học Hamburg, Đức đã tổ chức hội thảo trực tuyến về “Văn học và Báo chí Miền Nam và sự tiếp nhận tư tưởng phương Tây”. Trong đấy, tuy đa phần các vị diễn giả là học giả hải nội, song bất cứ ai hứng thú cũng đã có cơ hội ghi danh tham dự hội thảo – một điều không thể tưởng tượng được trong thế giới tiền dịch Vũ Hán. Vài tuần trước đây, tôi cũng đã tham gia trực tuyến một buổi ra mắt số mới của tạp chí Quán Văn ở Saigon, cũng là một điều chưa từng dám nghĩ đến trước năm nay. Điều thú vị trên hết là – thật ra những phương tiện kết nối trực tuyến này vốn dĩ đã có từ lâu nay, bất quá hoàn cảnh xã hội và những thói quen xã giao cố hữu của người ta, trong đó – cứ ý tôi – phải nói một phần đáng kể chẳng qua là những hư lễ rườm rà, đã không thúc đẩy và ép con người chúng ta vào cái thế buộc phải tìm đến công nghệ trực tuyến để duy trì những thứ căn bản nhất thuộc về bản tính con người và những nhu cầu linh thiêng của đời sống tri thức. Gần đây, trong một cuộc nói chuyện điện thoại với nhà thơ Nguyễn Thanh Hiện, nhà thơ đã nói với tôi đại ý rằng, việc hai chú cháu mình có thể gọi điện thoại, nhìn mặt nhau, nghe giọng nhau như thế này là một phép lạ. Chúng ta sống trong thời đại thần tiên, phải cẩn thận đừng biến thành ác quỷ. Tôi riêng yêu lời này của nhà thơ. Tuy nhiên, tôi trộm mượn cùng một ý đó để nói, rằng: Hiện nay quang cảnh văn đàn hải ngoại dù lướt qua thoạt đầu có phần tịch mịch, nhưng kỳ thực chưa bao giờ kỹ thuật in ấn sách, trao đổi thông tin học thuật, nghệ thuật, hay việc kết nối hải nội hải ngoại chư quân tử lại thuận tiện như ngày nay. Rất có thể, chúng ta đã bước vào những năm đầu của một thời đại đêm trường hắc ám, nhưng ít ra chúng ta cũng đã có những ngọn đèn sẽ giúp soi đường bước qua ghềnh u tối. Chúng ta đã được ban cho lửa – đừng nên vội tự dập tắt đi. Vì chưng, đêm vừa buông, mà canh gác hãy còn dài.
Việt Thạch Nguyễn Thụy Đan
Placerville, Tiết Tiểu Thử, Tháng 7, 2021
_______________________________
Nguyễn Vy Khanh
VỀ MỘT CUỘC HỘI THẢO VĂN HỌC VÀ BÁO CHÍ MIỀN NAM 1954-1975
Hội thảo về báo chí và văn học miền Nam Việt-Nam (1955-1975) và sự tiếp nhận tư tưởng phương Tây (Literature and Journalism in the Republic of Vietnam 1955 – 1975 and the Reception of Western Thought) do Viện Việt-học thuộc Viện Đại học Hamburg Đức tổ chức, đã diễn ra trực tuyến ngày 11-6-2021 với khoảng 30 tham luận viên và 100 người trong và ngoài nước tham dự. Chúng tôi được mời chủ tọa phiên hội về các phong trào/khuynh hướng văn chương (Panel C: Approaches on Literary Movements), gồm 8 tham luận.
Viện Việt-học Đại học Hamburg trong thông báo tháng 3-2020 cho biết Hội thảo mong muốn “làm sáng tỏ tính năng động, sự tinh vi, và đa dạng về văn hóa và xã hội của miền Nam Việt Nam giai đoạn 1954-1975, qua cách tiếp cận văn học và báo chí ở miền Nam Việt Nam từ góc độ các lý thuyết khoa học nhân văn ở phương Tây, nhằm tìm hiểu xem bộ phận tri thức này đã gắn bó và chịu ảnh hưởng của các tư tưởng chính trị, xã hội, văn hóa, tôn giáo, thẩm mỹ, triết học và văn học của phương Tây như thế nào. Hội thảo nhấn mạnh tính năng động và sự đa dạng của tư tưởng phương Tây trong các văn bản và các tác giả cũng như giữa các văn bản của các tác giả khác nhau và các văn bản khác nhau của cùng một tác giả. Bối cảnh lịch sử mà qua đó tư tưởng phương Tây du nhập vào miền Nam Việt Nam và được cảm nhận khác nhau giữa các tác giả cũng là một mối quan tâm của hội thảo. Hội thảo mở ra nhiều cách tiếp cận đối với văn học và báo chí miền Nam Việt Nam, muốn tìm hiểu xem bộ phận tri thức này đã tham gia vào các vấn đề có ý nghĩa xã hội, văn hóa, chính trị và triết học như thế nào đối với Việt Nam và thế giới cả trong quá khứ và hiện tại. Cách tiếp cận như vậy đối với văn học và báo chí của Nam Việt Nam cũng nhằm hướng tới một quan điểm đa dạng, bao gộp về bộ phận tri thức này”.
Chúng tôi tham gia với kỳ vọng cuộc Hội thảo sẽ có những khám phá, đưa ra cái mới, cốt lõi, đặc điểm của các khuynh hướng Văn-Học và Báo-Chí miền Nam tức Việt-Nam Cộng-Hòa thời 1954-1975. Và cái nhìn, nhận định của hôm nay, thời điểm năm 2021, chứ không là thời sau ngày 30-4-1975 là thời có khá nhiều sách báo của chính quyền Cộng-sản đã tấn công, xuyên tạc và xóa bỏ nội dung và thành tựu của 20 năm văn học Việt-Nam Cộng-Hòa mà sau này có người viết thời đó đã chối bỏ hoặc loại, xóa “tác phẩm” của mình ra khỏi danh sách sự nghiệp. Tức là chúng tôi và đa phần độc giả trông mong các tham luận sẽ không một chiều, theo một lề, tức là không theo chủ nghĩa hình thức và nội dung rập khuôn, trùng lặp.
Đây là một Hội thảo mang tính quốc tế (ở nước Đức, với tham gia của người Việt và nước ngoài ở trong và ngoài nước), nghiên cứu nhà trường (đại học) và cập nhật 2021 đã được đáp ứng phần nào kể cả đáng hoan nghênh, tiếc là (phiên) hội này vẫn có quan điểm, chữ dùng và lý luận lỗi thời, tuyên truyền một chiều. Có thể ghi nhận sự đóng góp tích cực về văn-học phản chiến, về thế giới tiểu thuyết của Nguyễn Đình Toàn và hai tham luận về tư tưởng Nữ quyền và các nhà văn nữ.
Hai tham luận đã có sai lầm lịch sử hoặc viết sai như khi cho rằng giai đoạn 1954-1975 chỉ có hai thực thể Việt-Nam Cộng-Hòa và “Cộng-Hòa miền Nam Việt Nam”, và rằng chiến tranh thời đó là giữa chính quyền VNCH và “chính phủ Cộng hòa miền Nam”. Trong thực tế lịch sử, đó là một cuộc chiến tranh giữa miền Bắc xâm lăng và miền Nam tự vệ – vì VNCH là tiếp nối lịch sử của “Quốc gia VN” đã được gần 100 quốc gia công nhận, trong khi “chính phủ Cộng hòa miền Nam VN” là sản phẩm dàn dựng của “VN Dân chủ Cộng hòa” miền Bắc từ 1969 để kịp ngồi vào bàn Hòa đàm Paris, đất và dân chiếm đoạt rất … khiêm tốn và “nội các” nhiều lúc đã chạy qua đất Cam Bốt của ông hoàng Sihanouk; năm 1975 làm màu để xâm chiếm miền Nam VNCH rồi sống đến giữa năm 1976 thì hết nhiệm vụ – cũng như MTGPMN là do Quốc hội Hà Nội và Đảng CSVN dựng lên năm 1960. Một diễn giả ghi trong Tựa “Thơ Cộng hòa Nam Việt” dễ khiến hiểu lầm là ông muốn nói đến thơ của MTGPMN, còn gán như vậy cho “Văn-Học miền Nam” là không trung thực về phương diện trí thức. Nếu là “chính phủ Cộng hòa miền Nam VN” tức MTGPMN thì tại sao nhà thơ/nhà báo này lại không nghiên cứu, phân tích thơ của họ. Một sai lầm khác là dùng sai từ “Nam bộ” khi nói đến miền Nam Việt-Nam từ vĩ tuyến XVII. Và một ngạc nhiên khác với chúng tôi là thấy ghi tên nhà văn Nguyễn Bính Thinh thay vì An Khê – phải chăng vì ngại nhắc nhở vụ thua trận đánh ở An Khê, Bình Định, một cách y như Nguyễn Q. Thắng năm nào?
Về các nhà văn nữ Túy Hồng, Trùng Dương, Nguyễn Thị Thụy Vũ, Nguyễn Thị Hoàng cũng như Nhã Ca, Lệ Hằng, Trần Thị NgH. đã có những tác phẩm đặc sắc và đã có một chỗ đứng đặc-biệt trong văn-học miền Nam thời này cũng như văn-học VN nói chung với một cung cách rất riêng tư, qua nội-dung và ngôn-ngữ sử-dụng cũng như nồng độ ý thức và cảm xúc! Một tham luận đã tổng quát hóa cho rằng các nhà văn nữ đã làm nên “làn sóng nữ quyền hiện sinh”. Thiển nghĩ “nữ quyền” thì có, nhưng “hiện sinh” thì chỉ có đôi nét trong tiểu thuyết của Nguyễn Thị Hoàng và Trùng Dương. Các nhà văn nữ thời này khởi đi từ ý chống truyền thống, phụ quyền trong cuộc sống và hôn nhân đến đòi hỏi bình đẳng giới tính và tự do cá nhân. Từ đó, văn, ngôn ngữ táo bạo, trần bì, hiện thực, đa dạng ở mỗi nhà văn, với hoặc không cùng mục đích. Chúng tôi có góp ý rằng Nữ quyền ở miền Nam phần nào đã bước đi từ thuyết Nhân vị của Đệ Nhất Cộng Hòa, của luật gia đình của bà dân biểu Ngô Đình Nhu, của giáo dục và đời sống đa nguyên, khai phóng, tự do, dân chủ của miền Nam; phần khác do ảnh hưởng của phong trào sinh viên Pháp 1968 và tự do tình dục, Françoise Sagan, phim ảnh Brigitte Bardot. Đúng là thời vàng son của các nhà văn nữ và chỉ có ở miền Nam trong khoảng 10 năm đó.
Tác phẩm của Nguyễn Đình Toàn đã được một tham luận “tìm thấy sự đồng cảm trong những triết thuyết phương tây, đặc biệt là triết học hiện sinh” cũng như lối viết của Tân tiểu thuyết “như những trình hiện đời sống dửng dưng … Qua những khám phá nội giới của con người giữa dòng bão đời phi lý, thể hiện ưu tư lớn về đời sống – sống như tồn tại tạm bợ, bị đẩy đưa trong dòng đời, là thực tại hay một phi lý của cuộc hiện sinh…”.
Văn học phản chiến ở miền Nam cũng được nhìn lại tuy không nói rõ vai trò của Việt-cộng, của “phản chiến” Nhất Hạnh nhập cảng từ đại học Mỹ, phản chiến ở miền Nam nói chung là chống chiến tranh huynh đệ, do Mỹ và khối CS quốc tế đứng sau cũng như chiêu bài VC kêu gào hòa bình biện minh cho việc cổ võ chiến-tranh, cho tinh thần chủ chiến và hiếu chiến; còn con người nói chung và người Việt nói riêng đều mơ ước hòa-bình trong đó có loại phản chiến của Việt-cộng nằm vùng như Sơn Nam, Vũ Hạnh, Lữ Phương, Trang Thế Hy, Vân Trang, Minh Quân, Lưu Nghi, v.v…
Một tham luận khác về những dấu ấn từ văn học trong nền điện ảnh miền Nam. Khác với miền Bắc, nhà nước kiểm soát toàn bộ sinh hoạt điện ảnh; ở miền Nam vai trò tư nhân khá lớn: làm phim không cần xin phép trước và Sở kiểm duyệt chỉ cấm hay đòi chỉnh đổi khi đã xong và khá hiếm. Dấu ấn từ các tác phẩm văn học là đương nhiên cộng thêm truyền thống truyện Tàu, nghĩa hiệp, cải lương của miền Nam.
John Steinbeck cũng được một tham luận dùng để nói đến việc tiếp nhận văn học Mỹ ở miền Nam, nhưng không đề cập đến hai việc mà tôi đã ghi nhận trong bộ Văn Học Miền Nam 1954-1975 của tôi: Steinbeck sang Việt-Nam làm phóng viên chiến trường và hậu thuẫn cho sự can thiệp quân sự của Hoa Kỳ vào Việt Nam, trong loạt bài báo Những Bức Thư Gửi Alicia viết từ Sài-Gòn năm 1966-67 và đăng trên tờ Newsday ở Hoa-Kỳ, có đoạn ông nghĩ về đám phản chiến ở Mỹ: “Những cuộc biểu tình lê thê nhân danh lương tri để phản đối việc giết người, chỉ là những hành động khả ố. Ôi! Tôi thèm khát được dẫn đầu một cuộc biểu tình chống Việt-cộng. Bạn A-li-xa yêu mến của tôi ơi! Trong khi chờ đợi, bạn có nghe ai khích lệ bọn Việt-cộng, bạn hãy thay tôi cho nó một quả đấm vào mồm nhé!” (bản dịch đăng nhật báo Sống. Năm 2012, NXB University of Virginia đã xuất-bản Steinbeck in Vietnam: Dispatches from the War gồm những bài phóng sự vừa nói, do Thomas E. Barden giới thiệu). Hồ Hữu Tường sau đó đã phản ứng lại với loạt bài Thư tràng giang gửi Sten-bêch cũng trên báo Sống từ số ra ngày 12-1-1967 sau in lại ấn bản thủ bút Người Mỹ Ưu Tư (Paris: TGXB, 1968 nhân cuộc hòa đàm bắt đầu) gửi thư cho John Steinbeck tỏ thái độ đồng tình và đưa ra trường hợp những đứa con lai dưới hình-thức tiểu-thuyết.
Tham luận gọi là Nhìn lại Thơ văn thời Việt-Nam Cộng Hòa tiếp cận văn chương và nghệ thuật phương Tây như thế nào, khá chủ quan và thiếu sót, đã không khai thác nhiều nội dung thi ca, và tách biệt đâu là ảnh hưởng và ảnh hưởng như thế nào, ở đâu, không nói đến sự đa dạng của Thơ Tự do cũng như siêu thực, triết lý và dấn thân cũng như thiếu phân tích, trích dẫn. Hai mươi năm thơ văn mà chủ yếu chỉ nói đến 5, 7 vị. Nói đến ảnh hưởng Âu Mỹ mà quên của Đông Âu, Nam Mỹ, Nhật Bản, … Đề cao ảnh hưởng Tây Phương và hiện sinh trong Thơ Tô Thùy Yên là xa quá; theo tôi thơ ông khá đậm nét Đông phương. Cũng như sai khi gọi thơ Đen là hiện sinh, trong khi đó là thơ siêu hình.
Tham luận – nộp vào những ngày cuối, của ông tiến sĩ – từng làm luận án về Vũ Hạnh, nay đề cao “nằm vùng” VH xem “điểm sách” là “vũ khí đấu tranh” để lại “dấu ấn của phê bình văn học miền Nam”, thì quá lỗi thời với cách minh họa, tô son, thần tượng hóa, tuyên truyền theo chính sách đảng CSVN. Chúng tôi và người trong ban tổ chức đã lên tiếng xác minh về con người và vai trò của Vũ Hạnh. VH làm báo và điểm sách cho ai? Với mục đích gì? Tôi nói rằng “điểm sách” của VH không phải là “phê bình văn học” mà chỉ là phó sản của báo chí. Những bài ĐS của VH mang tính thông tin thường là tiêu cực, giả hình và chống phá là chủ yếu, vì có chủ đích – chắp nối, lặp lại tuyên truyền tấn công những người làm văn nghệ chân chính của miền Nam không cùng phe, không văn dĩ tải cộng sản như nhóm của ông ta. Hai mươi số Tin Văn mặt nổi là cơ quan báo chí của Lực lượng Bảo vệ Văn-hóa Dân-tộc do Lê Văn Giáp đứng đầu nhưng do Trung ương cục và đặc khu ủy Sài-Gòn-Gia Định do Trần Bạch Đằng chỉ đạo, với Nguyễn Văn Bổng điều khiển, viết bài và chủ-nhiệm chủ-bút Nguyễn Nguyên tức Nguyễn Ngọc Lương, là cán bộ đặc phái do Bộ Công an Hà-Nội cài vào miền Nam. Nhóm Tin Văn và những Vũ Hạnh, Lữ Phương, … sử-dụng những cái gọi là “văn-hóa dân-tộc” giả hình để gây chống đối, xáo trộn ở miền Nam. Vũ Hạnh gộp chung những nhà văn-hóa miền Nam không đứng dưới sự lãnh đạo của Việt-cộng, gọi những người này làm “văn-hóa mạo hóa”. Nhưng nay đã rõ, trước sau VH, LP, … luôn một ý cưỡng ép văn-nghệ vị nhân sinh và làm chính-trị một chiều, ý đồ lèo lái những người làm văn-hóa “dân tộc” thực sự vào con đường “dân tộc quốc tế”, “cộng sản” – “dân tộc” của họ là dân tộc giả hình, là chiêu bài của CS quốc tế, là phương tiện để CS đạt mục đích. VH chế ra cả biệt hiệu “tác-giả A. Pazzi” lẫn “dịch giả Hồng Cúc” để “dịch” cuốn Người Việt Cao Quí để lừa người đọc – thật ra chẳng có nguyên tác tiếng Ý nào cả, chỉ là theo chỉ thị phản ứng lại Người Việt Đáng Yêu trung thực của Doãn Quốc Sỹ xuất bản năm 1965 trước đó. Và trong một chiều hướng nào đó, nói đến dân-tộc là kéo lùi văn-nghệ, biến văn-học thành huyền thoại, ca dao, truyện cổ, … Vũ Hạnh phủ nhận văn-học thời đại đang diễn ra, nhất là khuynh-hướng hiện sinh, và quay lùi xem Thạch Sanh của truyện Nôm là “nghệ sĩ số một”. VH, LP, … không có gì mới, kéo lùi về văn minh nông nghiệp thì có. Và sáng tác, sáng tạo theo kiểu VH, Tin Văn là làm theo chỉ thị, điều động của CS Bắc Việt, gò ép theo hình tượng khuôn mẫu. “Dân tộc” kiểu quốc tế CS và không nhân bản, tình người thường tình. Tóm, VH chỉ là một tay sai tuyên truyền, không thể gọi là nhà lý thuyết, phê bình văn học gì cả, là tên gù như Viên Linh từng gọi, có nhiệm vụ dò la, len lỏi, nịnh LM Thanh Lãng, hội giáo chức… để thoát bị tù.
Phiên hội về các phong trào / khuynh hướng văn chương gồm 8 tham luận, ngoài hai sinh viên thạc sĩ, đa phần là do các nhà nghiên cứu và giáo sư đại học trong nước. Ngoài ra còn có ba phiên hội khác về các nhà văn và tác phẩm văn học miền Nam – về Thanh Tâm Tuyền, Doãn Quốc Sỹ, Bùi Giáng, Dương Nghiễm Mậu, Phạm Công Thiện, Nguyễn Hữu Hiệu, Nhật Tiến, Du Tử Lê, Trịnh Công Sơn, Hồ Biểu Chánh, Vũ Bằng, các chủ nghĩa Nhân vị, Hiện sinh, dịch thuật, nhân vật trẻ em, báo chí người Hoa, diễn ra cùng thời gian và có thể xem lại đa phần trên trang web của đại học Hamburg. Bài này ghi nhận vài nhận định riêng từ phiên hội chúng tôi chủ tọa.
Văn học miền Nam đã sớm bị vùi dập, cấm đoán ngay sau ngày Bắc Việt cưỡng chiếm Việt-Nam Cộng-Hòa nay dần dà được đưa trở ra “ánh sáng”, với thiện chí và trung thực thì ít mà tuyên truyền và lợi dụng buôn bán sách cũng thường xuyên hơn. Sau Hội thảo ở Nam California cuối năm 2014 và Thảo luận trên Thư Quán Bản Thảo tháng 2-2015, hơn 20 năm văn học ấy nay được một cơ quan đại học nước Đức tổ chức với những tham luận phải nhìn nhận nhiều phần khách quan và mang tính học thuật – rõ nhất ở các nhà nghiên cứu bên này vĩ tuyến XVII cũ, dù tuyên truyền và sai lầm vẫn “len lỏi” vào. Chỉ tiếc là các tổ chức Việt học, văn hóa và các học giả, nhà văn hải ngoại đã không góp mặt – ngoài tham luận của một người Nhật, một người Mỹ và hai người Mỹ, Đức gốc Việt (4 chủ tọa, ngoài chúng tôi và 2 giáo sư Viện Việt học Hamburg còn có 1 viện sĩ trong nước).