Lâm Vị Thủy: Nhà thơ giữa cõi không cùng

Trần Hoài Thư

Tôi dẫn tôi vào trong lớp học
Mây lên màu trắng áo thiên thần
Bàn tay e ấp trên trang sách
Trông dáng ai mà thương cố nhân

                                             Lâm Vị Thủy

(28-12-2011): Đã một tháng trôi qua,  kể từ sau khi chúng tôi post bài viết về nhà thơ Lâm Vị Thủy cùng lời kêu gọi bạn đọc nếu hay biết gì về nhà thơ này xin vui lòng tin cho chúng tôi được rõ thêm, thì hôm nay chúng tôi  nhận được một điện thư của một cựu học sinh trường trung học Chân Phước Liêm – trường mà nhà thơ Lâm Vị Thủy đã từng dạy, với một số tin tức về tiểu sử của nhà thơ LVT mà chúng tôi mong muốn..Chúng tôi xin chân thành cảm tạ người bạn không quen về việc sốt sắng giúp đỡ, và xin được post lại bài viết, sau khi nhuận sắc và cập nhật.

Hình ảnh của giáo sư  Lâm Vị Thủy tức nhà thơ Lâm Vị Thủy lúc sinh tiền và lúc nhập quan (nguồn: www.chanphucliem.com)

Lâm Vị Thủy sinh vào ngày 28-4-1937 mất ngày 21 tháng 7 năm 2002. Lập gia đình được 2 gái 3 trai..
Giáo sư Việt Văn tại một số trường tư thục tại Sài Gòn.
Viết văn, làm thơ. Thường xuất hiện trên tạp chí Phổ Thông.
Trong nhóm Tao Đàn Bạch Nga.
Sau năm 1975 có thời gian ở tù trong khám Chí Hòa.
Ra tù trải qua những tháng năm cùng cực và cô đơn.
Thi phẩm xuất bản: Sao em không về làm chim thành phố, do Huyền
Trân xuất bản vào năm 1963.


Vào một buổi chiều của tháng 7 năm 2011, trong một bữa cơm thân hữu
tại tư gia nhà văn Trần Yên Hòa tại Anaheim, Nam California, để góp vui
cùng bạn hữu, gia chủ đã đứng lên đọc một bài thơ mà anh cho biết không
rõ tên tác giả.

Đó là một bài thơ tình. Lời thơ thật đẹp, dạt dào cảm xúc. Và tôi đã mang
nó làm hành trang theo chuyến bay trở về lại New Jersey:

Buổi sáng trời mưa tôi trở dậy
Soi mặt mình bằng phiến gương đen
Chợt thấy hình em sầu đóng bụi
Nỗi đau này em nghe chăng em

Thành phố chừng như quên giấc ngủ
Tôi đi không kỷ niệm che đầu
Không em làm ấm vòng tay lạnh
Không cả ngày chưa quen biết nhau

Tôi dẫn tôi vào trong lớp học
Mây lên màu trắng áo thiên thần
Bàn tay e ấp trên trang sách
Trông dáng ai mà thương cố nhân

Sao em không là em thuở ấy
Để mỗi chiều tôi đón cổng trường
Đường xưa còn dấu chân em đấy
Gót nhỏ giờ vui mộng viễn phương

Mùa xuân nào mưa bay mãi đây
Xa nhau không một ánh trăng gầy
Nửa đêm nghe tiếng xe về vội
Tôi đốt đèn lên ngồi ngắm tay

Ơi tình yêu đã về hay chưa
Còn đây từng tháng đợi năm chờ
Còn đây một nét môi cười đó
Em vụt tầm tay tôi bơ vơ

Tình yêu, tình yêu, tình yêu ơi
Mùa xuân, mùa xuân, mùa xuân rồi
Hồn tôi muốn khóc làm sao dỗ
Em của người ta, tôi của tôi.

Trở về, tôi lên internet để truy tìm nguồn gốc. Mới biết tác giả là
nhà thơ Lâm Vị Thủy. Sưu tầm thêm, được tổng cộng tất cả 5 bài…
5 bài cho một cuộc đời của một người thi sĩ. Càng cay đắng hơn khi
đọc những giòng sau đây, trên một trang mạng:

 “…Bàn tay tôi lần giở những trang thơ cũ xa xưa…
1978. Cô sinh viên văn khoa vẫn thường trốn học lang thang hàng giờ
và vùi đầu vào hết thư viện này đến thư viện khác, hôm ấy vô tình tìm
thấy trong một ngăn giá sách nằm khuất sâu phía trong một cuốn thơ
mỏng đã ố vàng. Một cái tên lạ, hầu như chẳng bao giờ thấy trong các
cuốn sách, các tạp chí phê bình. Nhưng ngay từ những dòng mở đầu,
cô đã thấy gợi lên một cái gì đó thật đặc biệt trong đời sống tâm hồn
của nhà thơ, một cái gì đó u ám, day dứt, cô đơn… Ẩn sâu trong những
dòng thơ tưởng như viết ra vội vã và giản đơn là cả một tâm hồn thật
yếu đuối trước những biến động của cuộc đời … Đó là tập thơ in năm
1963 của NXB Huyền Trân, tập thơ mang một cái tên thật lạ, lạ như
chính những dòng thơ ấy…   “ Sao em không về làm chim thành
phố
”…

Cô sinh viên ấy là mẹ tôi. Mẹ tôi mê thơ của Lâm Vị Thủy đến mức
từng chọn đề tài luận văn là Chủ nghĩa hiện sinh, nhưng khi đăng ký,
người ta trả lời rằng không có ai hướng dẫn đề tài…

Tôi không chú ý lắm đến cái tên và những dòng mở đầu trong tập thơ
của ông, nhưng thật sự bị hút vào bài thơ “Cuối cùng” và “Thơ của
những người không yêu nhau”, dù khi ấy tôi còn rất nhỏ để có thể hiểu
thấu đáo những lời ông viết. Tôi cũng không đọc nhiều về chủ nghĩa
hiện sinh, nhưng với tôi, và có lẽ cả với mẹ tôi, đến bây giờ Lâm Vị Thủy
vẫn là một ẩn số, một cái tên lạ. Tôi chưa từng thấy ở đâu cái tên ấy,
trong sách vở, trên mạng, trong các tạp chí nghiên cứu phê bình văn học.
Và sẽ tuyệt vời biết bao nếu tôi được nghe bạn nói với tôi về nhà thơ
Lâm Vị Thủy, người đã viết những dòng thơ khắc khoải buồn rầu, gợi lên
những góc khuất trong tâm hồn mà đôi khi ta tưởng như đã rơi vào vội
vàng cuộc sống…

(Nguồn: Diễn Đàn CĐV SLNA: Sao em không về làm chim thành phố )

Sau đó, người viết đã cho post 4 bài thơ trong thi tập. Có điều bài thơ
chánh là bài Sao em không về làm chim thành phố, người viết đã trích
lọc và bỏ rất nhiều câu (khoảng 46 câu). Nguyên do có lẽ là chúng
“dị ứng” đối với chế độ cai trị đương thời chăng?

Đó là lý do thôi thúc chúng tôi cố gắng sưu tầm và giới thiệu một cách
nghiêm chỉnh nhà thơ Lâm Vị Thủy trong TQBT số này… (xin mời đọc
trọn bài không cắt xén trong phần trích thơ LVT)

Tiểu sử và cuộc đời nhà thơ Lâm Vị
Thủy

Không có một tài liệu hay sách báo nào cho biết về tiểu sử của Lâm
Vị Thủy, dù chỉ vài dòng ngắn ngủi. Ngay cả tập thơ “Sao em không
về  làm chim thành phố” (SEKVLCTP) do Huyền Trân xuất bản vào
năm 1963, chúng ta cũng không thấy một giòng chữ về tiểu sử như
hầu hết tác phẩm của các tác giả khác.  Tuy nhiên, trong ba trang
đầu, “Cho Hoàng những ngày thơ mộng cũ”, ông đã hé lộ về một
phần của cuộc đời thiếu thời và thanh xuân của ông:

“ Thuở nhỏ, anh sống ở một miền ngoại ô, trong sự cơ cực của những
người thân yêu. Các em anh không bao giờ có lấy một cái áo lành lặn
để mặc trong những ngày giỗ tết. Anh có người chú ham đọc các sách
viết về các tôn giáo, chủ nghĩa và thích đánh bạc ngay với cả cuộc đời
mình.

Anh nuôi nấng những hình ảnh thiếu thời ấy cho tới trưởng thành và
lăn vào đời với hai bàn tay trắng, với những ý nghĩ trả thù. Anh đã
phải sống không một tiếng nói, không một nụ cười bao nhiêu năm rồi.
Anh còn sống thế này bao lâu nữa…”

(SEKVLCTP, trang 10)

Ông là một giáo sư Việt Văn, dạy các trường tư thục như Âu Lạc,
Văn Lang,  Chân Phước Liêm ở SG. Phước An ở Bà Chiểu. Về mặt sinh
hoạt văn học nghệ thuật, ông là thành viên của nhóm Tao Đàn Bạch Nga
của tạp chí Phổ Thông. Ông làm thơ rất ít, thỉnh thoảng viết truyện ngắn.
Hầu hết những sáng tác của ông xuất hiện trên tạp chí Phổ Thông.
Bài thơ nổi tiếng được truyền tụng nhất của ông là bài “Tuần của tình
yêu”, được đăng trên Phổ Thông số 120 ngày 1-2-1964. Trên mạng,
bài thơ này đổi thành “Hình như kỷ niệm”. Chúng tôi không biết lý do
tại sao và phải chọn tựa nào cho đúng. Nguyên bản bài thơ sẽ đăng
lại trong phần thơ trích dẫn để bạn đọc thưởng lãm.

Sau 1975, ông trải qua một thời gian bị tù trong khám Chí Hòa.
Trong cuốn Hồi ký Khám Chí Hòa, tác giả Vĩnh Khanh cho biết Lâm Vị
Thủy là người rất thông suốt về khoa Tử Vi.  Tác giả đã kể lại chuyện
ông được nhà thơ Lâm Vị Thủy truyền dạy tử vi như thế nào qua cái
ống nước khi hai người ở hai phòng giam không hề thấy mặt
nhau… Khi chúng tôi hỏi tác giả có biết gì về cuộc sống của nhà
thơ Lâm Vị Thủy sau khi ở tù ra, thì tác giả Hồi Ký cho biết như sau:

“…Sau khi ra tù Chí Hòa, tôi có tìm đến địa chỉ ở Hóc Môn Bà Điểm
mà ông đã cho khi còn trong tù để thăm ông. Nhà của ông lúc đó
không còn nữa, ông xin tá túc trong một gia đình hàng xóm. Khi
tôi đến thì ông không có nhà. Trong khi ngồi chờ ông, hai vợ chồng
chủ nhà có cho tôi biết thêm về hoàn cảnh của ông. Sau khi ông
ra tù, nhà cửa không còn, người thân cũng không còn ai. Ông không
còn chỗ tá túc nào nên đến xin ở nhờ gia đình này, với lời hứa sau khi
tìm được việc làm sẽ trả tiền thuê nhà sau. Tuy nhiên ông không thể
tìm được một việc làm nào ổn định cả. Mỗi ngày ông đi lang thang
khắp nơi tìm bạn hữu hoặc người quen nào đó khả dĩ có thể
giúp cho ông được một chút ít tiền bạc, hoặc việc làm lặt vặt … cứ thế
lây lất qua ngày. Qua lời nói của hai vợ chồng chủ nhà lúc bấy giờ,
tôi nhận xét thấy họ không còn hoan nghênh ông nữa, chỉ muốn ông
có thể tìm được một chỗ nào khác và rời khỏi nhà họ càng sớm càng
tốt để họ khỏi phải vướng bận!

Tôi nghe chuyện này từ hai vợ chồng chủ nhà mà thấy buồn vô cùng.
Ngồi được một lúc thì ông về. Ông rất mừng khi gặp lại tôi, tuy nhiên
cũng rất ái ngại khi ở trong một hoàn cảnh như thế . Tôi hiểu ý nên
mời ông đi ra ngoài ăn sáng. Tôi còn nhớ chúng tôi đã ăn cơm tấm
buổi sáng hôm đó. Ông nói với nụ cười thật buồn khi chủ quán mang
hai dĩa cơm tấm đặt trên bàn: “Anh biết không? Từ khi ra tù đến
nay, đây là bữa ăn sáng thịnh soạn nhất của tôi!
“. Câu nói đã
làm tôi xúc động rất nhiều. Một người tài hoa như thi sĩ Lâm Vị Thủy
lại có lúc sa vào một cảnh ngộ thê thảm như thế. Lúc đó tôi không
mang theo tiền nhiều trong người nên chỉ có thể gởi cho ông một ít.
Tôi hẹn với ông mấy hôm sau gặp lại để biếu ông thêm.
Lần thứ hai tôi gặp ông ở quán Xuân Lạc Viên, gần cổng xe lửa số 6,
Phú Nhuận. Tôi biếu ông thêm một số tiền và có cho ông biết là tôi
sắp đi vượt biên. Từ đó tôi không gặp ông nữa.”

(trích email trả lời)

Từ đó tôi không gặp ông nữa. Cánh cửa thế gian đã tàn bạo đóng
ầm lại, quay mặt phũ phàng dù người ấy là một giáo sư nổi tiếng
có rất nhiều học trò và một nhà thơ được nhiều người mến mộ!
Giờ đây tôi chỉ biết cậy vào Google để may ra còn được gặp ông.
Mà Google cũng chịu thua.

Nếu Google có giúp chăng thì chỉ một giòng ngắn ngủi trong truyện
ngắn của Hoa Hoàng Lan: “Sợi tóc bạc”, theo đó, tác giả cho biết giáo
sư Lâm Vị Thủy đã qua đời trong đói nghèo, bệnh tật và túng bấn
(nguyên văn).


http://kekhopk.com/forums/index.php?showtopic=23508&mode=threaded&pid=91178

Tôi muốn kiểm chứng cho chắc chắn, nên gởi một lá thư về tác giả
qua trung gian một tờ nhật báo, nơi tác giả Hoa Hoàng Lan đã và đang
cộng tác, nhưng rất tiếc vẫn chưa nhận được hồi âm.

Giả dụ nếu ông còn sống, thì tính đến nay, số tuổi của ông tối thiểu
cũng phải 75 tuổi, tức là sinh vào năm 1936. Bởi vì, qua bài thơ Một
người bỏ đi
trong thi tập  (được hoàn tất vào tháng 8-1962), Lâm Vị
Thủy có thố lộ số tuổi của mình:

 Em về Phú nhuận hay đâu

Còn tôi hai sáu tuổi đầu rồi đây

(SEKVLCTP, trang 20)
Nếu có gì sai, xin quí bạn vui lòng cho chúng tôi biết, xin hết lòng
cám ơn. (1)

____

(1) Chúng tôi mới nhận được tin từ một người cựu học sinh trung học Chân Phước Liêm cho biết nhà thơ sinh năm 1937 và mất năm 2002. Có nghĩa là chúng tôi đoán sai một năm.

***

THƠ LÂM VỊ THỦY

Điệu buồn theo

Tôi đã về tôi đã về đây
Thềm sương mù tỉnh giấc trưa gầy
Dấu chân xưa mất trong màu cỏ
Tôi vẫn còn đây vẫn trắng tay

Khói xanh dòng thuốc khơi tàn mộng
Mùa xuân nào mang em ra đi
Em đi thì có bao người tiễn
Thì lỡ bao nhiêu chuyện ước thề

Em ở đâu rồi em ở đâu
Bốn phương trời để một tôi sầu
Em mười mấy tuổi trăng mười mấy
Sao bắt tôi chờ trọn kiếp sau.

Còn gì cho nhau

Trời mưa làm buồn khu phố nhỏ
Tàu sẽ xuôi hay ngược chiều nay
Còi xa bật khóc lên rồi đó
Em sẽ đi, mình xa nhau đây.

Những ngón tay gầy thưa kỷ niệm
Anh cho em cho quê hương này
Nửa đời anh đấy anh tìm kiếm
Ôi nghìn thu nào chưa mây bay

.Anh nghĩ hồn anh là bọt bể
Vẫn đơn côi và mãi mang sầu
Lần xưa đã lỗi lầm như thế
Em có bao giờ em biết đâu?

Tuần của tình yêu

Chủ Nhật

Buổi sáng trời mưa tôi trở dậy
Soi mặt mình bằng phiến gương đen
Chợt thấy hình em sầu đóng bụi
Nỗi đau này em nghe chăng em?

Thứ Hai –

Thành phố chừng như quên giấc ngủ
Tôi đi không kỷ niệm che đầu
Không em làm ấm vòng tay lạnh
Không cả ngày chưa quen biết nhau

Thứ Ba –

Tôi dẫn tôi vào trong lớp học
Mây lên màu trắng áo thiên thần
Bàn tay e ấp trên trang sách
Trông dáng ai mà thương cố nhân

Thứ Tư –

Sao em không là em thuở ấy
Để mỗi chiều tôi đón cổng trường
Đường xưa còn dấu chân em đấy
Gót nhỏ giờ vui mộng viễn phương

Thứ Năm –

Nghìn thu còn mưa bay mãi đây
Xa nhau không một ánh trăng gầy
Nửa đêm nghe tiếng xe về vội
Tôi đốt đèn lên ngồi ngắm tay

Thứ Sáu –

Ôi tình yêu đã về hay chưa
Còn đây từng tháng đợi năm chờ
Còn đây một nét môi cười đó
Em vuột tầm tay tôi bơ vơ

Thứ Bảy –

Người yêu, người yêu, người yêu ơi
Mùa thu, mùa thu, mùa thu rồi
Hồn tôi muốn khóc làm sao dỗ
Em của người ta, tôi của tôi.

(trích Phổ Thông số 120 ngày 1-2-1964)

– Bài thơ này được phổ biến trên một vài trang mạng với tựa đề: Hình như kỷ niệm (Tòa soạn chú thích)

Sao em không về làm chim thành phố

1.
Thôi bây giờ đã vào mùa hạ
Tôi xin làm trẻ thơ
Giấc ngủ trần truồng bên đồi cỏ rối…

Thôi bây giờ tôi giã từ em
Câu chuyện hoang đường hồi nhỏ dại
Như kẻ từ sa mạc tìm về
Như thuở nằm nôi chưa lần rửa tội

Thôi bây giờ tôi trả cho tôi
Những khoảng tâm hồn hoang vu, cằn cỗi
Mà đau đớn vô cùng

2.
Căn gác bỏ quên ly cà phê đen
Hình bóng em cuối mỗi con đường
Mang tên một hành tinh xấu số
Những gốc cây hô hào đòi lật đổ

Sự lỗi lầm nào đã buộc chúng ta vào nhau
Khi trời chưa mùa hạ
Khi tôi chưa là người thủy thủ già
Bới tóc người yêu trên cát

3.
Thôi bây giờ người đưa thư không đến nữa
Tôi sống bằng màu áo em mang
Bằng những buổi trưa đón em về ngã tư đèn xanh đèn đỏ

Như những ngày mưa chợt đến vội vàng
Những thoáng vui làm phiền muộn
Tôi lang thang ra bờ sông
Dòng nước đen sâu hình ảnh tôi muôn đời
Vẫy những con tàu đi không trở lại
Vẫy những người đưa thư đi qua
Những kỷ niệm nhích xa mình mãi mãi
Bởi vì vẫn đi nên chịu một mình
Như chuyến xe lăn tròn cỏ xấu
Tôi để tôi ngồi ghế đá công viên
Chép sử đời mình đám đông dòm ngó
Kẻ nào dơ tay thề trên hồn mình
Kẻ nào đứng lên chửi thầm đồng loại

Sao em không về làm chim thành phố
Lệ nhỏ hai hàng khép đỉnh ngọn cây

4.
Này đây ngàn chuỗi ưu tư
Em bó mình tôi trước giờ tôi chết
Rồi thôi tất cả chẳng còn gì
Thềm nhà đất ẩm em chân không
Gian phòng tôi nghĩa địa
Với áo cỏ gai nụ hôn đầu cúi mặt
Tôi biết viết gì cho em
Khi những cánh thư quên đường Gia Định
Khi những cánh thư thôi về Bình Dương…

Tôi xin em một bài vọng cổ
Tôi xin em một điệu nam bình
Người tình mình ở mãi phương xa
Môi sốt hồng mệt mỏi
Mùa lạnh tái tê này
Khoe quyến rũ

5.
Em biết không quê hương mình
Thế hệ xưa là bóng núi
Xui lòng em giận hờn
Tôi nguyền rủa tôi
Kẻ tội đồ chứng nhân lịch sử
Em biết không khi chối bỏ cuộc đời
Tôi sẽ gọi tên em như một lời cầu cứu
Tôi sẽ gọi tên em vì tôi bơ vơ
Khi con đường phố chợ
Khi xóm bình dân những bữa cơm gia đình
Muốn khóc.

Hãy cho tôi được nắm lấy tay em
Được giữ rất lâu hai bàn tay bé nhỏ
Để nghĩ rằng quê hương chưa xa mình
Để nghĩ rằng tôi hãy còn tất cả
Ôi tình yêu và tuổi trẻ nhục nhằn

6.
Như mùa thu âm thầm đến muộn
Áo mỏng trời sương lồng ngực đau
Viền chỉ tay sần sượng
Tôi mua tờ báo loan tin buổi chiều
Thân thể khắc đầy những danh từ cách mạng
Em biết không.

Bởi vì chúng ta đã trưởng thành|
Bởi vì chúng ta không quyền lựa chọn
Chúng nó bất công giết người khủng bố
Nên chúng ta cần đốt lửa trái tim
Nên chúng ta cần có nhau mỗi ngày
Bởi vì chúng ta cùng chung lịch sử
Bởi vì chúng ta cùng chung chặng đường

 

7-

Vỉa phố gót chân mềm mưa mang vào thư viện
Mỏi hơi nằm ôm sách
Tường cao tường cao mênh mông
Kẻ nào đứng lên kêu gào thảm thiết
Tự do – tự do
Cho những người đã chết

 

8.
Tôi sẽ đưa em vào quán rượu
Nhịp điệu hành hình man rợ công khai
Làm gã trai lơ phóng đãng chơi bời
Buôn bán niềm vui hắt hủi
Như người ta gỡ tấm khăn choàng nghẹt thở
Tôi đưa em ra bờ sông
Khánh Hội mồ côi Tân Thuận sình lầy
Chánh Hưng không đành thiếp mệt
Như người ta gỡ tấm khăn choàng nghẹt thở
Tôi đưa em về vườn bông trái Lái Thiêu
Ngọt bưởi Biên Hoà phù sa Bassac
Em ngủ vai tôi ngậm tròn nước mắt
Em ngủ vai tôi tiếng hát êm đềm:
– “ Nhà bè nước chảy chia hai
Ai về Gia Định, Đồng Nai thì về…”
Ai về Gia Định, Đồng Nai thì về…

9.
Em còn nhớ không sân ga Hàng Cỏ
Năm cửa ô nghèo khổ
Ngục tù
Những tháng năm chìm Mai Lĩnh Hà Đông
Mồ hôi nước mắt
Em còn nhớ không Cống Trắng Nam Đồng
Em còn nhớ không
Em còn nhớ không

Chúng nó bất công giết người khủng bố
Nên chúng ta cần đốt lửa trái tim
Nên chúng ta cần có nhau mỗi ngày
Bởi vì chúng ta cùng chung lịch sử
Bởi vì chúng ta cùng chung chặng đường
Như mùa xuân bé bỏng mong chờ
Như tuổi lên mười thơm hiền sữa mẹ
Tôi cũng muốn tin như em đã tin rằng phải có những tín điều
Để buộc liền chúng ta với nhau
Để buộc liền chúng ta vào xứ sở

Tôi cũng muốn tin như em đã tin rằng chỉ có tình yêu là đáng kể
Và khuôn mặt em ngời hy vọng cuối cùng

10.
Thôi bây giờ em khóc đi em
Như những người quen nhau ngoài phố
Những trang nhật ký buổi đầu
Không căm thù giả dối…

Bài này được phổ biến trên một vài trang mạng với 80 câu. Chúng tôi xin phổ
biến toàn bài (ghi chú của Tòa soạn)

Cho một người xem
Bỏ ngoại ô những chiều thứ bảy
Những đường mòn khấp khểnh bánh xe lăn
Tôi vào thành phố
Mẩu thuốc cuối cùng cháy ngúm hai đầu ngón tay

Lối về nhà em mùa này chắc lạnh
Những súc gỗ lột da nằm sân ga hổn hển
Bụi than làm xám đen nền trời kỷ niệm ngày hai đứa mới yêu nhau
Những mẩu chuyện thần tiên hồi trẻ dại
Tóc em đùa cánh đồng đừng buông lau gió thổi

Có phải cuộc đời như ga xép
Chúng mình những chuyến tàu quen thuộc
Đôi mắt người xếp tanh* giờ ngó tìm qua vuông kính mở
Những dòng sông
Những cánh rừng cao su chưa lấy mủ

Tôi đã khóc khi nghĩ rằng ngày mai tôi có thể quên em
Quên một người con gái mang tên Hoàng
Dù chỉ là trong giấc ngủ

Tôi xin được làm con chim nhỏ
Con chim màu xanh
Những sớm mai đậu ngoài cửa sổ
Dỗ giấc em ngon lành

Đừng bao giờ giận hờn nhau…

 

Cuối Cùng
Thứ bảy mà sao trời muốn khóc
Không em thành phố trống vô cùng
Tôi đứng chờ xe mà sợ lạc
Chuyến xe nào mang tôi xa thêm em

Như thuở mười lăm thường trốn học
Hồn tôi lang thang đi tìm mình
Dấu tay thượng đế quên điểm chỉ
Tôi đem thân mòn phơi công viên

Em vùi da thịt trên bồn cỏ
Cột điện làm se những sợi vàng
Lời trăn trối nén tung ngoài lệ
Hai đứa gần nhau giấc ngủ đen.

Thơ của những người không yêu nhau


Một mình tôi trên chiếc buýt buổi chiều
Chiếm lấy chỗ ngồi riêng người tàn tật
Xe qua sông khi thành phố đang mưa
Những ngọn đèn xa mang màu mắt đỏ

Cát biển mặn mòi tôi thân sỏi nhỏ
Còn sót lưng năm bảy ngón ngang tàng
Tôi muốn ôm và hôn em lần cuối
Lịch sử chúng mình du đãng con hoang

Rồi ngày mai tôi tới lớp một mình
Ngồi chỗ em ngồi bỗng dưng thèm khóc
Khung cửa sổ này, lối đi xưa còn đó
Bầu trời xanh và sắc áo em đâu

Tôi trở về hai bàn tay mở ngỏ
Không gia đình, không xứ sở, không em
Đem tên tôi đi gõ hỏi từng người
Xin giấc ngủ với vô vàn kỷ niệm.

Ngày tháng năm
Tôi sẽ về Gia Định chiều nay
Chiếc buýt cuối cùng qua sông cầu mới
Những ngọn đèn vàng ngậm cười ven bãi.

Tôi sẽ ngồi quán cà phê đầu đường đất đỏ
Kêu một ly đen nhỏ
Đợi chuyến xe bò chở rác về khuya.

Bây giờ tháng bảy trời đương mưa
Em lấy chồng tháng ba năm ngoái
Tôi thiếu em những ngày xưa ngu dại
Em nợ tôi dăm ba lời tạ từ.

Bởi vì không quê hương nên nghĩ mình yếu đuối
Tôi trở về mang dấu chàm tử tội
Và những chuyện thần tiên những chuyện thần tiên chưa từng kể
Không có em còn nói cho ai
Không có ai Gia Định còn gì để tôi quyến luyến.

Như những người lái xe đi qua đời mình nhắm mắt
Tôi trở thành lãng tử trong ca dao
Tóc rối ưu tư nụ cười nửa miệng

Thuốc hút vàng tay mà vẫn se môi
Không có em những tuần trăng ở đây vô nghĩa
Chủ nhật nhà thờ không người dự lễ
Tôi đi vào những lối đi xưa
Gọi tên em cùng với lúc thành phố lên đèn
Và tiếng còi tầu chợt đến rất xa xôi
Phải chi em đừng có nhiều kỷ niệm

Phải chi tôi đừng thèm biển rộng sông sâu
Thì em muôn đời vẫn là người yêu đơn sơ bé nhỏ
Thì tôi không bao giờ phải khóc hôm nay…

 

Lâm Vị Thủy

_______________________________________________

*Chú thích của TS TQBT: Xếp tanh (từ gốc chữ Pháp “Chef de train”) là nhân viên hỏa xa phụ trách tổng quát trên xe lửa.

6 Replies to “Lâm Vị Thủy: Nhà thơ giữa cõi không cùng”

  1. Tháng Mười Hai 15, 2016 lúc 6:56 sáng
    Xin cảm ơn Ngoc Tran. Cảm ơn chú Trần Hoài Thư. Cảm ơn tất cả. Cảm ơn những người đã đi qua và để lại một nét son trên trang thơ của bố Lâm Vị Thuỷ. Nếu như bố còn sống hẳn cảm thấy rất an ủi vì vẫn có người nhớ đến bố và yêu thơ bố.
    I missed you so much,bố ạ…😞😢😔

  2. Xin cảm ơn Ngoc Tran. Cảm ơn chú Trần Hoài Thư. Cảm ơn tất cả. Cảm ơn những người đã đi qua và để lại một nét son trên trang thơ của bố Lâm Vị Thuỷ. Nếu như bố còn sống hẳn cảm thấy rất an ủi vì vẫn có người nhớ đến bố và yêu thơ bố.
    I missed you so much,bố ạ…😞😢😔

  3. Kính thưa nhà văn Trần Hoài Thư,
    Em là một nữ độc giả của trang Tương Tri của cô Tôn Nữ Thu Dung, nhờ trang này mà được biết đến tác giả Trần Hoài Thư và tạp chí Thư Quán Bản Thảo.
    So với các anh chị trên văn đàn miền Nam trước 1975 thì tuổi đời em còn rất nhỏ, năm đó em đang học lớp 11 trường Nữ Trung Học Trưng Vương Sài Gòn.
    Tuổi đó thời đó thì em cũng chỉ đang đọc Tuổi Hoa, một số bạn cùng lớp trưởng thành hơn thì đọc Tuổi Ngọc.
    Em chỉ biết đến văn học miền Nam nhiều hơn là về sau và trên mạng internet, và biết được vông trình đồ sộ của nhà văn Trần Hoài Thư là khôi phục lại văn học miền Nam trước 1975.
    Qua trang này xin cho phép em được bày tỏ lòng ngưỡng mộ và khâm phục nhà văn Trần Hoài Thư: một người rất có tâm, có tài và nặng lòng với một nền văn học tự do và đa dạng một thời của Việt Nam.

    Sở học của em không nhiều, tài năng văn chương em không có, em chỉ biết thưởng ngoạn và luôn thấy đau đau trong lòng khi đọc những tác phẩm văn học Việt Nam trước 1975.

    Em mạo muội viết lá thư này bày tỏ chân tình của em trước công việc vĩ đại của nhà văn Trần Hoài Thư.

    Xin kính chúc nhà văn Trần Hoài Thư và gia đình luôn bình an mạnh khoẻ và công việc của nhà văn được thành công tốt đẹp.

    Kính thư,
    Nguyễn Thị Thông.

  4. Ông Trền Hoài Thư quả ư là người ác . Thú thật tôi đã quên hẳn nhà thơ Lâm Vị Thủy từ lâu lắm vì những truân chuyên mình gặp phải đã xóa nhòa đi thời kì hoa mộng thuở còn là học sinh . Tôi đã mua tập thơ Sao Em Không Về Làm Chim Thành Phố vào những năm 1966- ?- vì sách in đẹp vì tựa sách đọc lên nghe như thơ mộng và trên hết là tên tác giả sao mà hay hay chứ thật ra lúc ấy tên Lâm Vị Thủy còn xa lạ với tôi nhiều lắm. Sau đó người bạn nối khố cùng chung quê hương , cùng học chung trường đã dạy cho tôi biết trong tập thơ đó có những câu mà đến hôm nay bạn tôi đã qui tiên coôn tôi thì qua tuổi thất thập vẫn còn nhớ như in : Tôi bỏ đơôi tôi quê hương tôi/ Đi hoang từ độ mất em rồi / nghìn phương không đủ làm nguôi mộng / Khôn g đủ làm phai một nét môi.

    Nay được nhớ lại lòng tôi không khỏi nghẹn ngào vì nhớ người bạn cũ và hoài niệm thời vàng son hoa mộng tuối học trò ở quê mẹ thân yeu . Trân trọng ghi ân nhà văn Trần Hoài Thư

  5. Năm 17 tuổi tôi được một người bạn của ông anh tặng cho tập thơ” Sao em không về làm chim thành phố”. Tôi say mê, miệt mài với tập thơ này nhưng không biết Lâm Vị Thủy là ai …Tôi còn nhớ trong phầm mở đầu của tập thơ có câu” Ở đây mau tối mà chậm sáng, bốn mùa sương mù qua kẻ tay, cảnh trí chỉ là những tỉnh vật, con người chìm đắm trong những nổi nhớ nhung muôn đời như không bao giờ muốn mở miệng ….Anh thường nghĩ đến em như nghĩ đến những ngày mai dù những ngày mai ấy tràn đầy bóng tối…”
    Tập thơ có những bài rất hay, như những bài mà ông Trần Hoài Thư đã sưu tầm được.Tôi tò mò muốn biết nhiều về tác giả này, nhưng chỉ biết đước rằng ông đã từng dạy trường Văn Lang- Saigon mà thôi. Tôi luôn nghĩ rằng: không phải người tài hoa nào cũng nổi tiếng vì lẽ rằng làm thơ như Lâm Vị Thủy mà không có tên trong danh sách những nhà thơ lớn của miền Nam trước 75 thì thật là một điều thiếu sót lớn. Cách đây 2 năm tình cờ vào web:phodatron.net của nhà văn Vĩnh Khanh đọc được một bài thơ của Lâm Vị Thủy tôi vội email hỏi về Lâm Vị Thủy thì biết rằng ông Khanh đã từng ở tù với Lâm Vị Thủy ở Khám Chí Hòa, ông cho biết rất quý mến nhà thơ này và cũng rất mong được liên lạc với Lâm Vị Thủy:
    những câu cuối của bài thơ Sao em không về làm chim thành phố là:
    Kẻ nào đứng lên thề trên hồn mình
    Kẻ nào đứng lên chửi thầm đồng loại
    Sao em không về làm chim thành phố
    Nắng đổ hai hàng khép đỉnh ngọn cây
    Bây giờ tôi thật hài lòng mà biết rằng không phải chỉ mình tôi ở tuổi đôi mươi đã và luôn yêu thơ Lâm Vị Thủy, mà cũng có rất nhiều người đã yêu thơ ông. Tôi hy vọng trong một góc ẩn khuất nào đó trong ngôi nhà xưa tập thơ “Sao em không về làm chim thành phố” vẫn còn đó. Bao nhiêu năm rồi tôi chưa có dịp trở về nên hy vọng vẫn là hy vọng.
    Xin chân thành cảm ơn ông Trần Hoài Thư và quý đọc giả gần xa đã đóng góp tin tức, tài liệu về nhà thơ Lâm Vị Thủy, một người tài hoa trong văn đàn miền Nam Việt Nam trước 1975
    Kính bút
    Mimosa Phương Vinh
    Berryhill-TN

  6. Tôi tên Lâm Tường Thoại, người con trai thứ hai của nhà thơ Lâm Vị Thủy. Chúng tôi gồm hai trai, một gái là con của người vợ đầu. Ba tôi có thêm 1 gái, 1 trai với người vợ thứ hai. Thời điểm những năm sau giải phóng cả ba tôi và chúng tôi đều rất khó khăn. Má chúng tôi đã đưa chúng tôi đi ở nơi khác, không ở chung với ba Thủy từ năm 1972 khi ông có người vợ thứ hai, tuy nhiên chúng tôi vẫn giữ liên lạc với ba Thủy và thăm viếng ông, ngay cả khi ba tôi ở Chí Hòa. Sau đó khi chúng tôi lớn, tốt nghiệp ra trường, làm việc … cuộc sống tương đối dễ thở hơn. Ba tôi mất năm 2002 nhưng khi đó không phải ở một mình mà vẫn đang ở với gia đình thứ hai tại Thị Nghè, khu vực gần ngôi trường Phước An mà ba tôi từng dạy. Chúng tôi gồm 2 con trai và đứa em gái ở Úc về đã chu toàn mọi việc cho ba đến nơi an nghĩ cuối cùng. Dự đám tang còn có chú tôi (em ruột của ba ở Hà Nội vào), một số anh chị là cựu học sinh của ba. Chân thành cảm ơn anh Trần Hoài Thu, những anh chị là cựu học sinh của ba tôi, những bạn bè của ba, những độc giả quan tâm đến ba tôi đã cất công sưu tầm những vần thơ của ba, đã cung cấp những thông tin về ba để đăng tải trên blog của anh Trần Hoài Thu.

Leave a Reply

This site uses Akismet to reduce spam. Learn how your comment data is processed.

Discover more from BLOG THT & THƯ QUÁN BẢN THẢO

Subscribe now to keep reading and get access to the full archive.

Continue reading